Bước tới nội dung

Thành viên:Flewis Peacock/nháp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Vụ nghe lén điện thoại ở Vinh

[sửa | sửa mã nguồn]
Vụ nghe lén điện thoại ở Vinh
Một phần của Chiến tranh Việt Nam
Loại hìnhNhiệm vụ gián điệp
Địa điểm
Vạch ra bởiCIA
Tiếp vật kínhĐặt máy nghe lén, do thám Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày7 tháng 12 năm 1972 (1972-12-07)—đầu tháng 5 năm 1973
Tiến hành bởiDaniel H. Smith và Lloyd George Anthony Lamonte Jr., biệt kích Lào, CIA
Kết quảThu thập được thông tin tình báo đến đầu tháng 5 năm 1973

Vụ nghe lén điện thoại ở Vinh (tiếng Anh: Vinh wiretap) là một hoạt động gián điệp của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam. Từ 7 tháng 12 năm 1972 đến đầu tháng 5 năm 1973, Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã chặn các cuộc liên lạc quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và chuyển chúng về cho nhà ngoại giao Mỹ Henry Kissinger. Vì các đường dây điện thoại dọc biên giới được giám sát chặt chẽ, nên CIA quyết định nghe lén một đường dây điện thoại đa kênh quân sự nằm giữa lãnh thổ Việt Nam gần Vinh. CIA đã sử dụng một chiếc trực thăng màu đen để cài một máy nghe lén bí mật nhằm nghe lén các cuộc thảo luận về đàm phán Hiệp định Paris và các thông tin tình báo khác.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong suốt cuộc Nội chiến Lào, một phần của Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, các điệp viên CIA ở Vương quốc Lào đã thâm nhập vào Đường Trường Sơn từ phía tây để cài máy nghe lén trên đường dây điện thoại của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ năm 1966. Chính phủ miền Bắc đã siết chặt kiểm soát các nỗ lực này bằng việc tuần tra hàng ngày để kiểm tra hành vi cài đặt dọc theo đường dây điện thoại của họ trên tuyến đường. Đến năm 1971, khi chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh đang vắt cạn nguồn lực của Hoa Kỳ cho Chiến tranh Việt Nam, nhu cầu thông tin tình báo của Hoa Kỳ lớn hơn bao giờ hết. Trong đó, CIA nhắm vào một đường dây điện thoại nằm sâu trong đất liền miển Bắc. Ảnh chụp từ trên không tiết lộ một địa điểm có thể đặt thiết bị nghe lén cách Vinh 24 km về phía Tây Nam. Một tổ hợp đường dây điện thoại quân sự đã được lắp đặt trên một ngọn đồi dốc ở một địa điểm xa xôi, trong khi đội tuần tra của miền Bắc đi vòng quanh ngọn đồi đó mà không kiểm tra chặt chẽ các đường dây trên đỉnh núi. Tuy nhiên, việc lắp đặt một máy nghe lén ở vị trí đó đòi hỏi phải vượt qua Đường Trường Sơn được bảo vệ nghiêm ngặt và tiến sâu vào bên trong VNDCCH.[1]

Kế hoạch và huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]
A later model OH-6 Cayuse, modified with black paint, similar to the Hughes 500Ps used in the operation.

CIA đã cải tiến hai chiếc Hughes OH-6 Cayuses thành những chiếc mà họ gọi là Hughes 500P, hay còn được gọi là "The Quiet One". Chúng được cải tạo lại rất nhiều, bao gồm phủ một lớp sơn hấp thụ radar màu đen, và biến chiếc máy bay tàng hình mà đến nay vẫn được coi là loại trực thăng yên tĩnh nhất. Chuyến bay công khai đầu tiên của nó diễn ra vào ngày 8 tháng 4 năm 1971. Vào ngày 28 tháng 4, Air America đã thuê hai phi công giàu kinh nghiệm để đào tạo phi hành đoàn lái chiếc trực thăng màu đen, và có người thứ ba được thuê sau đó.[2] Họ bắt đầu làm quen với trực thăng bằng cách lái nó trong phạm vi thử nghiệm Khu vực 51 ở Hoa Kỳ và các địa điểm khác.[3]

Mùa xuân năm 1972, quá trình chuẩn bị của CIA ngày càng tiến triển. CIA đã nỗ lực đào tạo các phi công Trung Hoa Dân Quốc, bởi họ muốn có khả năng phủ nhận trong trường hợp phi hành đoàn bị bắt. Người ta tin rằng một phi hành đoàn người châu Á có thể phủ nhận trong khi một phi hành đoàn người da trắng thì không.[3][4]

Trong khi quá trình này đang diễn ra, một cuộc không kích được Nhà Trắng chấp thuận cụ thể đã "vô tình" tấn công vào khu vực cấm tấn công xung quanh mục tiêu. Ngoài ra, Air America đã mua hai chiếc OH-6 dân sự chưa được cải tạo và đưa chúng vào hoạt động tại Lào vào tháng 4 năm 1972 để che đậy cho chuyến bay của trực thăng 500P đến nước này sau đó. Hai tháng sau, sau khi OH-6 đã chính thức hiện diện tại Lào, những chiếc 500P đã được lén đưa vào Lào để tiếp tục huấn luyện tại một căn cứ xa xôi gần Pakxe, được gọi là PS-44. Tại đây, các phi công Trung Hoa Dân Quốc dần bộc lộ rằng họ không đủ khả năng thực hiện phi vụ này. Khi một phi công Dân Quốc làm rơi một trong những chiếc 500P trong một lần hạ cánh ban đêm, nhóm phi công châu Á này đã bị loại khỏi phi vụ. Thay vào đó, hai trong số các phi công của Air America sẽ thực hiện nhiệm vụ xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam.[3][5]

Một chương trình đào tạo nghiêm ngặt đã được triển khai. Một mô hình của địa điểm nghe lén đã được thiết lập để thực hành các thao tác: đó là một cái cây đã bị chặt bỏ cành và gắn thêm một thanh ngang để mô phỏng cột điện thoại mục tiêu. Lộ trình đến và đi từ địa điểm đã được ghi lại với sự trợ giúp của nhiếp ảnh trên cao. Các phi công đã thực hành bay sát mặt đất, bao gồm các chuyến bay giữa bờ suối, cho đến khi họ hạ cánh xuống cạnh mô hình. Hai lính biệt kích Lào được chọn để thiết lập máy nghe lén đã thực hành nhảy khỏi chiếc 500P và trèo lên cột điện thoại giả định để đóng đinh cố định thiết bị. Các phi công đã thực hành thiết lập các rơle liên lạc nhằm truyền tín hiệu của máy nghe lén cho bên nghe lén của CIA.[3][6]

Đến mùa thu năm 1972, nhiệm vụ đã sẵn sàng. Tuy nhiên, nó đòi hỏi một số điều kiện thời tiết và mặt trăng lúc tối ưu nhất định. Mặt trăng hình bán nguyệt là thời điểm cần thiết cho kính nhìn ban đêm của phi công. Ngoài ra, bầu trời với một chút mây cũng là điều họ mong muốn. Khi cơ hội đầu tiên cho phi vụ đến vào ngày 5 tháng 10, camera hồng ngoại quay trước (FLIR) cần thiết cho việc dẫn đường bị hỏng, buộc họ phải hủy bỏ nhiệm vụ. FLIR cũng đã hỏng trong hai lần tiếp theo. Pjhi vụ tiếp theo, vào tuần cuối cùng của tháng 11, toán biệt kích thực sự đã vào được miền Bắc Việt Nam trước khi bị sương mù dày đặc phủ trên mặt đất đẩy họ ra khỏi đấy.[3][7]

Diễn biến

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 4 tháng 12 năm 1972, Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Henry Kissinger đã đến Pháp để đại diện cho Hoa Kỳ tham dự Hội nghị hòa bình Paris về chấm dứt Chiến tranh Việt Nam.[7]

On 6 December, the "Quiet One" launched successfully.[7] It was flown by Air America pilots Daniel H. Smith and Lloyd George Anthony Lamonte Jr.[3] Speeding east through mountain passes and within ravines the copter covered 48 kilometers at an altitude of 200 foot (61 mét). It overflew known North Vietnamese antiaircraft positions without drawing fire. The copter halved its height when it came out over level land. Farmers out tending crops after dark paid it no mind as it flew over. The infiltrators also had the four enemy MiG-21s at Vinh Airfield as a concern.[7]

Having secretively flown virtually the entire width of Vietnam, the helicopter dropped in on its target. The two Lao commandos dropped the last few feet from the aircraft. The helicopter then flew off to a pre-selected tree on a 340-meter peak and dropped a mesh web supporting a camouflaged solar-powered communications relay over its crown. From there, the Hughes 500P moved again and settled into a dry streambed for a 20-minute wait while the commandos set up the wiretap. The hidey-hole turned near disastrous. A rock knifed the FLIR's liquid nitrogen tank; the resulting leak disabled the FLIR. At the same time, a radar detector began sounding its alarm. The pilot turned off the warning and settled in to wait for 20 minutes while the commandos worked. The enemy MiGs did not show up.[8]

When the commandos deplaned, they scrambled into a bomb crater left by the previous "accidental" air raid until they were sure they were alone. From there they moved to their target pole, only to discover it was concrete instead of wood, rendering their climbing spikes useless. Undaunted, they shimmied up the pole and placed the wiretap. Their return to the helicopter landing zone, and the 500P's subsequent return to PS-44 were uneventful.[9]

Kết quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Một ngày sau khi máy nghe lén được lắp đặt, Hoa Kỳ phát động Chiến dịch Linebacker II. Từ ngày 7 tháng 12 năm 1972 đến tháng 5 năm 1973, máy nghe lén đã chuyển thông tin về cho Hoa Kỳ. Kissinger coi đó là "tin tình báo tuyệt vời", mặc dù ông "không bao giờ đặt câu hỏi về nguồn gốc của nó".[10]

Đầu tháng 5 năm 1973, máy nghe lén cài ở Vinh bỗng bặt vô âm tín. Hoa Kỳ nghi ngờ có rơle bị hỏng. Họ bảy lần thử thay thế rơ-le nhưng không thành công trong khoảng thời gian từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 16 tháng 6 năm 1973, mặc dù không phải do Hughes 500P thực hiện. Công cuộc sử dụng chiếc trực thăng màu đen từ Khu vực 51 để nghe lén các cuộc thảo luận về đàm phán Hiệp định Paris và các thông tin tình báo khác của CIA chấm dứt.[3][11]

"The Quiet One" đã được lẳng lặng loại bỏ khỏi nhiệm vụ do thám.[9] Khi trở về Hoa Kỳ, nó đã bị tước bỏ hầu hết các tính năng đặc biệt trước khi bị loại bỏ. Tuy nhiên, di sản của chiếc trực thăng này vẫn tồn tại trong các tính năng như rotor chính được sửa đổi và rotor sau kiểu cắt kéo trên các trực thăng sau này, với cả hai đều được tìm thấy trên Boeing AH-64 Apache.[3]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Conboy, Morrison, pp. 381–2.
  2. ^ Conboy, Morrison, pp. 361, 382 – 383.
  3. ^ a b c d e f g h Chiles, James R. (tháng 3 năm 2008). “Air America's Black Helicopter”. Air & Space Magazine. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2023..
  4. ^ Conboy, Morrison, p. 382.
  5. ^ Conboy, Morrison, pp. 382, 384.
  6. ^ Conboy, Morrison, pp. 362, 383.
  7. ^ a b c d Conboy, Morrison, p. 384.
  8. ^ Conboy, Morrison, pp. 384–5.
  9. ^ a b Conboy, Morrison, p. 385.
  10. ^ Conboy, Morrison, p. 385, note 40 p. 386.
  11. ^ Conboy, Morrison, note 40 p. 386.
  • Conboy, Kenneth and James Morrison (1995). Shadow War: The CIA's Secret War in Laos. Paladin Press. ISBN 0-87364-825-0.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • CIA Secret Airline on YouTube: Bắt đầu từ phút thứ 28: đường dây điện thoại đã bị nghe lén trong suốt Hội nghị hòa bình Paris, với các báo cáo được gửi đến Kissinger.