Sonic Youth
Sonic Youth | |
---|---|
Thông tin nghệ sĩ | |
Nguyên quán | Thành phố New York, Hoa Kỳ |
Thể loại | |
Năm hoạt động | 1981–2011 |
Hãng đĩa | Neutral, Sub Pop, Ecstatic Peace!, Blast First, Homestead, SST, Enigma, DGC, SYR, Interscope, Matador |
Hợp tác với | Ciccone Youth |
Cựu thành viên | Kim Gordon Thurston Moore Lee Ranaldo Steve Shelley Mark Ibold Richard Edson Anne DeMarinis Bob Bert Jim Sclavunos Jim O'Rourke |
Website | www |
Sonic Youth là một ban nhạc rock đến từ Thành phố New York, thành lập năm 1981. Các thành viên Thurston Moore (guitar, hát), Kim Gordon (guitar bass, hát, guitar) và Lee Ranaldo (guitar, hát) có mặt trong suốt lịch sử ban nhạc, trong khi Steve Shelley (trống) gia nhập năm 1985 sau khi một loạt tay trống khác vào và rời nhóm. Trong thời kỳ đầu, Sonic Youth liên quan đến giới nhạc no wave ở Thành phố New York. Ban nhạc là một phần của làn sóng noise rock đầu tiên của nước Mỹ, cũng như mang đến các nét của hardcore punk nhưng tập trung nhiều vào tinh thần do it yourself hơn là các đặc điểm riêng của hardcore.[3]
Ban nhạc được nhạc nhà phê bình ca ngợi và có thành công thương mại tương đối, đồng thời còn ký hợp đồng với hãng đĩa lớn DGC năm 1990 và headline festival Lollapalooza 1995. Sonic Youth được ca ngợi là đã "tái định nghĩa những gì guitar rock có thể làm".[4] Ban nhạc cũng ảnh hưởng lớn đến phong trào alternative và indie rock.
Năm 1999, âm nhạc của họ nhận được sự quan tâm của các thính giả nhạc cổ điển thế kỷ 20 và nhạc thử nghiệm với việc phát hành SYR4: Goodbye 20th Century, một album đôi gồm các nhạc phẩm của các nghệ sĩ avant-garde như John Cage, Yoko Ono, Steve Reich, Pauline Oliveros, George Maciunas, Cornelius Cardew, Nicolas Slonimsky và Christian Wolff được biểu diễn bởi Sonic Youth với các nghệ sĩ như Christian Marclay, William Winant, Wharton Tiers, Takehisa Kosugi.
Đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]- Các album phòng thu
- Confusion Is Sex (1983)
- Bad Moon Rising (1985)
- EVOL (1986)
- Sister (1987)
- Daydream Nation (1988)
- Goo (1990)
- Dirty (1992)
- Experimental Jet Set, Trash and No Star (1994)
- Washing Machine (1995)
- A Thousand Leaves (1998)
- NYC Ghosts & Flowers (2000)
- Murray Street (2002)
- Sonic Nurse (2004)
- Rather Ripped (2006)
- The Eternal (2009)
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ O'Dair, Barbara (ngày 13 tháng 11 năm 1997). “Kim Gordon: The Godmother of Grunge on Feminism in Rock”. Rolling Stone.
- ^ Ford, Chris (ngày 10 tháng 5 năm 2015). “21 Years Ago: Sonic Youth Wipe Off the Grunge With 'Experimental Jet Set, Trash and No Star'”. Diffuser.
- ^ Browne 2008.
- ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Sonic Youth – Music Biography, Credits and Discography: AllMusic”. AllMusic. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2013.
- Foege, Alec (1994). Confusion Is Next: The Sonic Youth Story. New York: St. Martin's Press.
- Ignacio, Julia; Gonzalo, Jaime (1994). Sonic Youth: I Dreamed of Noise. Barcelona: RUTA 66.
- Prendergrast, Mark (2000). The Ambient Century: From Mahler to Trance, the Evolution of Sound in the Electronic Age. Bloomsbury. ISBN 1-58234-134-6.
- Azerrad, Michael (2001). Our Band Could Be Your Life. New York: Little, Brown.
- George-Warren, Holly; Romanowski, Patricia biên tập (2005). “Sonic Youth”. The Rolling Stone Encyclopedia of Rock & Roll. New York City, New York: Fireside. ISBN 978-0-7432-9201-6.
- Chick, Steve (2007). Psychic Confusion: The Sonic Youth Story. Omnibus Press.
- Wild, Peter biên tập (2008). The Empty Page: Fiction Inspired by Sonic Youth. Serpent's Tail. ISBN 978-1-85242-956-0.
- Browne, David (2008). Goodbye 20th Century: A Biography of Sonic Youth. Da Capo Press. ISBN 978-0-306-81515-7.