Shinhwa
Shinhwa | |
---|---|
Shinhwa năm 2018 | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Nguyên quán | Hàn Quốc |
Thể loại | |
Năm hoạt động | 1998–nay |
Hãng đĩa | SM Entertainment (1998–2003) Good Entertainment (2004–2008) Shinhwa Entertainment (2011–nay) |
Thành viên | |
Website | Shinhwa Company |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Sinhwa |
McCune–Reischauer | Sinhwa |
Hán-Việt | Thần Thoại |
Shinhwa (Tiếng Hàn: 신화; Hanja: 神話) là một nhóm nhạc nam Hàn Quốc có 6 thành viên, bao gồm Eric Mun, Lee Min-woo, Kim Dong-wan, Shin Hye-sung, Jun Jin và Andy Lee. Được SM Entertainment lần đầu giới thiệu vào ngày 24 tháng 3 năm 1998, nhóm đã ký kết với Good Entertainment vào năm 2004 trước khi thành lập Shinhwa Company để quản lý sự nghiệp của họ với tư cách là một nhóm nhạc. Nhóm ban đầu đã gặp khó khăn với album đầu tiên trước khi tìm thấy thành công về mặt thương mại với album thứ hai T.O.P. (tháng 4 năm 1999). Khi hợp đồng của nhóm với SM Entertainment hết hạn vào tháng 7 năm 2003, tất cả 6 thành viên đã ký hợp đồng với Good Entertainment và đảm nhận quyền kiểm soát sáng tạo với việc phát hành Brand New (tháng 8 năm 2004). Cùng năm đó, các thành viên bắt đầu theo đuổi sự nghiệp cá nhân.
Sau 4 năm gián đoạn do phần lớn các thành viên thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc, cả 6 thành viên đã thành lập Shinhwa Company để tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp của nhóm. Việc phát hành album thứ mười The Return (2012) đã đưa nhóm trở thành nhóm nhạc Hàn Quốc đầu tiên tiếp tục biểu diễn sau khi các thành viên thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Shinhwa cũng là nhóm nhạc thần tượng K-pop đầu tiên có sự nghiệp thành công sau khi rời công ty quản lý ban đầu, mặc dù bị lôi kéo vào các cuộc chiến pháp lý với SM Entertainment vì cái tên "Shinhwa" trong vài năm. Trong suốt sự nghiệp 25 năm của mình, Shinhwa đã phát hành tổng cộng 13 album phòng thu tiếng Hàn, 1 album tiếng Nhật và nhiều album tổng hợp khác nhau.
Shinhwa hiện là nhóm nhạc nam hoạt động lâu nhất trong lịch sử của K-pop,[1][2][3][4] và thường được coi là một phần của "thế hệ đầu tiên" của K-pop, cùng với H.O.T., S.E.S., g.o.d, Fin.K.L, trong số những nghệ sĩ khác.[5][6] Sản phẩm âm nhạc và tuổi thọ của nhóm đã đóng vai trò ảnh hưởng đến thế hệ tương lai của các nhóm nhạc thần tượng K-pop, khiến nhiều người mô tả nhóm là "huyền thoại".
Thành viên
[sửa | sửa mã nguồn]Nghệ danh | Hàn văn | Tên thật | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hàn văn | Hán tự | Hán-Việt | Sinh nhật | Vị trí | Công ty chủ quản hiện tại | |||
Eric | 에릭 | Moon Jeong-hyeok | 문정혁 | 文晸赫 | Văn Chính Hách | 16 tháng 2, 1979 | Trưởng nhóm, rap chính | TOP Media |
Min-woo | 민우 | Lee Min-woo | 이민우 | 李玟雨 | Lý Mân Vũ | 28 tháng 7, 1979 | Center, nhảy chính, hát dẫn | Liveworks Company |
Dong-wan | 동완 | Kim Dong-wan | 김동완 | 金烔完 | Kim Đông Hoàn | 21 tháng 11, 1979 | Hát dẫn | Liveworks Company[7] |
Shin Hye-sung | 신혜성 | Jeong Pil-gyo | 정필교 | 申彗星 / 鄭弼敎 | Thân Tuệ Tinh / Trịnh Bật Giao | 27 tháng 11, 1979 | Hát chính | Liveworks Company |
Jun Jin | 전진 | Park Choong-jae | 박충재 | 前進 / 朴忠裁 | Tiền Tiến / Phác Trung Tài | 19 tháng 8, 1980 | Nhảy dẫn, rap dẫn, hát phụ | Liveworks Company[8] |
Andy | 앤디 | Lee Seon-ho | 이선호 | 李先鎬 | Lý Tiên Hạo | 21 tháng 1, 1981 | Rap dẫn | TOP Media |
Sự nghiệp[9]
[sửa | sửa mã nguồn]1998-2001: Thành lập, những khó khăn và thành công bước đầu
[sửa | sửa mã nguồn]Sau sự thành công của hai nhóm nhạc đã thành lập trước đó H.O.T. và S.E.S., SM Entertainment đã lên kế hoạch thành lập và cho ra mắt nhóm nhạc tiếp theo của họ. Với sự thanh gia của sáu thành viên Eric, Lee Minwoo, Kim Dongwan, Shin Hyesung, Junjin và Andy, nhóm nhạc nam mới Shinhwa ra đời, với cái tên trong tiếng hàn mang ý nghĩa là "thần thoại", qua album phòng thu đầu tiên của nhóm Resolver (Hangul: "해결사") vào ngày 9 tháng 5 năm 1998. Ba đĩa đơn trong album bao gồm: bài hát chủ đề cùng tên, "Eusha! Eusha!" (Hangul: "으쌰! 으쌰!"), và "Sharing Forever" (Hangul: "천일유혼").[10][11] Màn trình diễn của Shinhwa với Resolver khá mờ nhạt, tuy nhiên nhóm đã bị cáo buộc về sự thiếu độc đáo và cố gắng bắt chước nhóm nhạc tiền bối cùng công ty H.O.T.. Shinhwa cũng bị quấn vào một số tranh cãi khi biểu diễn ca khúc "Eusha! Eusha!", một ca khúc với nội dung về chuyến đi biển vui vẻ, trong khi Sự cố tàu ngầm Sokcho năm 1998 diễn ra.[12] Mặc dù Shinhwa đã thẳng giải Tân binh của năm tại Mnet Asian Music Awards[13], Resolver vẫn bị đánh giá là kém hiệu quả về mặt thương mại, dẫn đến việc nhóm phải đứng trên bờ vực tan rã.[14]
Shinhwa bắt đầu đạt được những thành công đầu tiên với những album tiếp theo của nhóm. Album thứ hai của họ T.O.P. ra mắt vào tháng tư năm 1999 đã nhận được những phản hồi tích cực về ca khúc chủ đề và phong cách độc đáo của nhóm. Đĩa đơn thứ hai "Yo" của Shinhwa lần đầu xuất hiện đã đạt được vị trí thứ tư và cao nhất là thứ ba với 377.500 bản được bán ra và bám trụ 24 tuần trên bảng xếp hạng tháng tại Hàn Quốc.[15] Shinhwa đã nhận được giải thưởng Video Âm nhạc Xuất sắc nhất từ một Nhóm nhạc Pop Nam mới tại Mnet Asian Music Awards.[12]
Ca khúc Only One ra mắt vào tháng năm năm 2000 trở thành ca khúc đầu tiên của Shinhwa đứng đầu bảng xếp hạng ngay khi được phát hành.[16] Nhờ sự thành công của ba đĩa đơn, "Only One", "All Your Dreams", và "First Love", album đã bán được 423.000 bản[17], giúp Shinhwa thắng ba giải thưởng trong năm đó: SBS Gayo Popularity Award, KMTV song Bonsang Award, và Popular Singers Award.[18] Tháng một năm đó, Shinhwa cũng tổ chức conccert đầu tiên của nhóm, First Mythology. Album thứ tư của Shinhwa Hey, Come On! ra mắt vào ngày 8 tháng sáu năm 2001 xếp hạng 3 ngay khi được phát hành.[19] Hai bài hát được quảng bá bao gồm "Hey, Come On!" và "Wild Eyes", ca khúc đã được cover lại nhiều lần sau này bởi vụ đạo độc đáo được kết hợp với việc sử dụng chiếc ghế trong lúc nhảy.[18] Album đã đạt được thành công thương mại với 430.700 bản được bán ra[20] và xếp thứ 11 trong bảng xếp hạng album năm 2001[21]. Shinhwa cũng bị dính vào một số tranh cãi thời điểm đó, bao gồm sự bàn tán về trường hợp vắng mặt bất chợt của thành viên Andy và ca khúc nổi tiếng của nhóm "Hey, Come On!" bị sao chép bởi nhóm nhạc nam Đài Loan, Energy.[18]
2002-2003: Làm nên lịch sử, thay đổi công ty quản lý và hoạt động cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Album tổng hợp đầu tiên của Shinhwa My Choice phát hành vào tháng một năm 2002, bao gồm một số bài hát được yêu thích bởi các thành viên và những bài hát nổi tiếng nhất của họ. Ngược lại với doanh số bán ra cao của Hey, Come On!, My Choice chỉ đạt được thành công tương đối với 171.300 bản bán ra. Album xuất hiện ở vị trí thứ 4 ngay khi được phát hành và đây cũng là thành tích cao nhất đạt được trước khi rơi khỏi bảng xếp hàng tháng.[20] Tại bảng xếp hạng tổng kết năm, My Choice xếp thứ 31 với doanh số tổng cộng 183.000 bản.[22] Vài tháng sau khi My Choice được phát hành, Shinhwa cho ra mắt album phòng thu thứ 5 của họ, Perfect Man vào ngày 29 tháng ba năm 2002. Perfect Man đánh dấu sự trở lại của thành viên Andy và album đã đứng đầu bảng xếp hạng hàng tháng ngay khi được phát hành, và là album thứ hai của Shinhwa làm được điều này. Song song với ca khúc chủ đề, nhóm cũng quảng bá bài hát "I Pray 4 U". Lượng bán ra cuối cùng của album vượt 350.000 bản[23] và xếp thứ 14 ở bảng xếp hạng Top 100 cuối năm 2002, với 362.000 bản.[22]
Shinhwa tạo nên lịch sử trong nền công nghiệp âm nhạc của Hàn Quốc bằng cách trở thành nhóm nhạc nam hoạt động lâu nhất với sự phát hành album thứ 6 của họ Wedding vào tháng mười hai năm 2022[24]. Album đạt vị trí cao nhất ngay khi được phát hành là hạng 3 và bán được hơn 273.700 bản.[25] Wedding cũng đánh dấu sự kết thúc hợp đồng của nhóm với SM Entertainment, công ty đã thảo luận ký hợp đồng lần thứ hai với cả nhóm trừ thành viên Dongwan. Cả nhóm cùng lựa chọn với một công ty quản lý mới, Good Entertainment, cùng với đó đã gây ra sự tranh chấp hợp đồng cho việc sử dụng cái tên "Shinhwa".[18] Vì hợp đồng với Good Entertainment sẽ chỉ bắt đầu vào năm 2004, các thành viên đã theo đuổi hoạt động cá nhân trong năm 2003. Lee Minwoo ra mắt solo với nghệ danh "M" và phát hành album đầu tiên của mình với tựa đề Un-touch-able. Shin Hyesung kết hợp cùng Kangta (H.O.T.) và Lee Ji-hoon trong nhóm nhạc dự án mang tên S. Junjin rẽ sang con đường diễn xuất bằng phim truyền hình Forbidden Love có sự góp mặt của Kim Taehee. Hai thành viên Junjin và Andy tham gia vào bộ phim hài kịch tình huống Nonstop 4 hay còn được gọi là Banjun Drama. Eric cũng bắt đầu diễn xuất và tham gia đóng quảng cáo. Shinhwa trở thành nhóm nhạc đầu tiên các thành viên hoạt động cá nhân ngay trong khi họ vẫn tiếp tục các hoạt động quảng bá chung của nhóm. Các thành viên đều cố gắng và đạt được thành công nhất định khi hoạt động cá nhân.
Các thành viên Shinhwa tái hợp và phát hành album tổng hợp Winter Story 2003-2004 vào ngày 30 tháng mười hai năm 2003 và đã bán được hơn 100.000 bản.[26] Nhóm cũng tổ chức concert thứ hai The Everlasting Mythology từ 18 đến 20 tháng tư năm 2003 và đồng thời bắt tay vào tổ chức chuyến lưu diễn Winter Story Tour tại 6 thành phố Seoul, Busan, Daejeon, Incheon, Daegu và Kwangju. Shinhwa sau đó đến Nhật Bản chuẩn bị cho buổi hòa nhạc Shinhwa First Live của nhóm tại Tokyo và một buổi gặp mặt với người hâm mộ Have Fun With Shinhwa On M.Net Tour.
2004-2006: Thành công về mặt thương mại và chuyến lưu diễn Châu Á đầu tiên
[sửa | sửa mã nguồn]Album đầu tiên của Shinhwa dưới trướng Good Entertainment, Brand New ra mắt vào tháng tám năm 2004, xếp hạng 3 ở bảng xếp hạng hàng tháng ngay khi được phát hành và đứng đầu vào tháng mười một cùng năm, sau khi bán được hơn 320.00 bản.[27][28] Album ghi nhận sự phát triển về kiểm soát sáng tạo của các thành viên, khi Eric và Minwoo tham gia vào quá trình sản xuất và Junjin trong việc biên đạo, dẫn đến việc nhiều bài hát thuộc thể loại dance được đưa vào sản phẩm cuối cùng của nhóm thay vì nhạc pop. Album được quảng bá thông qua 4 ca khúc: ca khúc chủ đề cùng tên với album, "Angel", "Oh!" và "Crazy". Album đã xếp hạng 4 trên bảng xếp hạng cuối năm 2004 và giúp nhóm nhận được nhiều lời tán dương, cũng như thắng nhiều giải thưởng lớn, trong đó lần đầu có giải Nghệ sĩ của Năm tại Seoul Gayo Daesang Awards.[29] Vài tuần sau đó, Shinhwa nhận được giải thưởng lớn Daesang thứ hai của họ tại SBS Gayo Daejun Awards 2004, thắng 2 trong số 4 giải thưởng lớn Daesang năm đó cùng Rain và Lee Soo Young. Tính trong năm 2004, Shinhwa nhận được nhiều giải thưởng nhất trong số tất cả các nghệ sĩ, với 13 giải thưởng hoặc hơn từ nhiều lễ trao giải khác nhau: m.net KMTV Music Video Festival, Seoul Gayo Daesang, Golden Disc Awards và MBC, KBS, SBS Gayo Awards. Bên cạnh giải thưởng lớn Nghệ sĩ của năm, nhóm còn nhận được giải thưởng Best Male Artist, Best Dance Artist, and Overseas Choice Award.
Sau thành công vang dội của Brand New, Shinhwa bắt đầu hoạt động lưu diễn của mình qua việc tổ chức Shinhwa Summer Story 2004 tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Hoạt động được tổ chức rộng rãi cho cả những người hâm mộ quốc tế của họ.[30] Mặc dù Shinhwa gần như bị gián đoạn hoạt động trong năm 2005, họ vẫn cho ra mắt hai ca khúc nổi tiếng "How Do I Say" và "Hey Dude!", cùng với đó tổ chức buổi concert Tropical Summer Story Festival.[31] Phần lớn trong năm này, Shinhwa tham gia cố định một chương trình truyền hình thực tế với tên gọi Let's Coke Play Battle Shinhwa!. Đây là một cuộc thi với mục đích tìm ra "Shinhwa tiếp theo" với phần thưởng là được ra mắt trong một nhóm nhạc nam ngắn hạn Battle tại Good Entertainment.[32] Đến cuối năm đó, Shinhwa phát hành Winter Story 2004-2005 và đã bán được hơn 102.300 bản.[33]
Sau khi gia hạn hợp đồng thêm 3 năm với Good Entertainment, Shinhwa phát hành album tiếp theo của nhóm State of the Art vào ngày 11 tháng năm năm 2006. Album đã đứng đầu bảng xếp hạng ngay sau khi phát hành và bán được hơn 215.600 bản trong nước.[34] Brand New và State of the Art là 2 album liên tiếp của nhóm đạt vị trí số một và trở thành album bán chạy thứ 3 trong năm 2006, sau The 3rd Masterpiece của SG Wannabe và "O"-Jung.Ban.Hap của TVXQ.[35] Sau màn trình diễn tại Budokan Hall ở Tokyo mừng sự ra mắt của Mnet Japan[36], album tiếng Nhật đầu tiên của nhóm Inspiration #1 cùng ca khúc mở đầu "This is the Sun in Our Hearts" ra mắt vào ngày 14 tháng sáu năm 2006. Album cúng được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng tám và đạt hạng 4 trên bảng xếp hạng Oricon, với hơn 100.000 bản được bán ra. Shinhwa sau đó tiếp tục tổ chức chuyến lưu diễn khắp Châu Á đầu tiên của họ Shinhwa 2006 Tour: State of the Art, khởi động với hai buổi hòa nhạc tại Olympic Gymnastics Arena, Seoul và tiếp tục ghé thăm Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Hong Kong, Thái Lan và một số quốc gia khác.[37] Shinhwa cũng biểu diễn tại Budokan Hall ở Tokyo và Osaka-jo Hall vào ngày 24 và 26 tháng chín với tư cách là một phần trong chuyến lưu diễn 2006 Japan Tour Inspiration#1 của nhóm.
2007-2012: Hoạt động cá nhân, kỷ niệm 10 năm và thực hiện nghĩa vụ quân sự
[sửa | sửa mã nguồn]Trong năm 2007, các thành viên mở rộng hoạt động cá nhân, thậm chí còn mạnh mẽ hơn thời điểm Shinhwa gián đoạn hoạt động vào thời điểm năm 2003. Các thành viên thành lập công ty riêng của họ: M Rising (Minwoo), New Dream Entertainment (Andy)[38], JF Story Entertainment (Junjin), H2 Entertainment (Dongwan), và Top Class Entertainment (Eric) để quản lý những hoạt động cá nhân của mình. Thành viên Dongwan cũng cho ra mắt album solo đầu tiên với tên gọi Kim Dongwan is vào ngày 5 tháng bảy năm 2007. Minwoo phát hành album thứ 3 vào ngày 10 tháng bảy năm 2007[39] tại Hàn Quốc, khác với dự định sẽ phát hành tại Mỹ trước đó[40]. Shin Hyesung cũng cho ra mắt album thứ hai của anh vào ngày 8 tháng tám cùng năm.[41]
Mặc dù Shinhwa dự định phát hành album thứ chín của họ vào tháng mười năm 2007, nó đã bị hoãn lại và thay vào đó là sự ra mắt của Winter Story 2007 vào ngày 6 tháng mười hai trong năm đó.[42] Album đã đạt được hạng 3[43] ngay sau khi phát hành và bán được 24.500 bản.[44] Ngay sau khi phát hành Winter Story 2007, Shinhwa tổ chức concert Châu Á của họ với hai buổi hòa nhạc vào ngày 8 và 9 tháng mười hai tại Saitama, Nhật Bản và theo sau ở Thượng Hải. Để kỷ niệm 10 năm ngày thành lập nhóm, Shinhwa tổ chức concert kỷ niệm 10 năm và phát hành album phòng thu thứ chín Volume 9.[45] Bởi vì đây là concert cuối cùng trước khi tất cả các thành viên lên đường nhập ngũ, 22.000 chỗ ngồi trong concert đã lập tức cháy vé.[46]
Sau lễ kỷ niệm 10 năm hoạt động và sự phát hành của album thứ chín, các thành viên tiếp tục hoạt động cá nhân của mình cho đến khi thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Eric nhập ngũ vào tháng mười và Dongwan vào tháng mười một năm 2008 tại Gongju, Chungcheongnam-do[47], cả hai đều tham gia phục vụ không tại ngũ. Junjin nhập ngũ vào ngày 22 tháng mười năm 2009 tại Trung tâm Huấn luyện Quân sự Nonsan ở Chungcheongnam-do với 4 tuần huấn luyện cơ bản và tiếp tục phục vụ cộng đồng sau đó.[48] Vào ngày 11 tháng một năm 2010, Andy tham gia nghĩa vụ quân sự bắt buộc và là thành viên duy nhất trong nhóm phục vụ tại ngũ trong 21 tháng.[49] Minwoo là thành viên cuối cùng nhập ngũ vào tháng hai năm 2010 và cũng phục vụ không tại ngũ sau 4 tuần huấn luyện cơ bản. Hyesung được miễn phục vụ nghĩa vụ quân sự do anh đã bị thương ở đầu gối trong một buổi concert vào năm 2001.
Vào ngày 30 tháng mười năm 2010, Eric kết thúc phục vụ nghĩa vụ quân sự.[50] Dongwan cũng giải ngũ ngày 17 tháng mười hai sau 24 tháng làm nhân viên hỗ trợ tại văn phòng quận Seodaemun-gu.[51] Andy cũng kết thúc nghĩa vụ quân sự tại ngũ vào ngày 31 tháng mười năm 2011 tại Bộ Quốc phòng ở Yongsan-gu, Seoul.[52] Junjin giải ngũ vào 14 tháng mười một năm 2011[53] sau khi làm việc tại Gangnam Management Corporation với nhiệm vụ quản lý một câu lạc bộ thể hình và bãi đỗ xe. Cuối cùng, thành viên Minwoo cũng xuất ngũ vào ngày 2 tháng ba năm 2012 sau khi phục vụ cộng đồng ở Ga Seoul.[54]
2012-2017: Shinhwa Company và lưu diễn
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi hợp đồng của Shinhwa với Good Entertainment hết hạn, Shinhwa thành lập công ty riêng để quản lý hoạt động chung của nhóm, với Eric và Minwoo là co-CEO và các thành viên còn lại là cổ đông. Các hoạt động cá nhân của từng thành viên vẫn sẽ được quản lý bởi công ty mà họ đã ký trước đó.[55][56] Một buổi họp báo thông báo về sự trở lại của Shinhwa đã được tổ chức vào ngày 5 tháng ba năm 2012 tại rạp CGV ở Cheongdam-dong và phát trực tuyến bởi Mnet Media.[57][58][59][60] Shinhwa cho ra mắt album phòng thu thứ mười của nhóm The Return vào ngày 23 tháng ba năm 2012. Để quảng bá cho album lần này, Shinhwa đã tổ chức chuyến lưu diễn 2012 Shinhwa Grand Tour in Seoul: The Return, khởi đầu ở Olympic Gymnastics Arena vào hai ngày 24 và 25 tháng ba năm 2012[61][62], sau đó tiếp tục đến Nhật Bản Trung Quốc, Đài Loan và Singapore.[63][64] Shinhwa cũng bắt tay sản xuất chương trình truyền hình thực tế đầu tiên của riêng nhóm Shinhwa Broadcast chiếu trên đài cáp JTBC.[65] Nhà sản xuất đã tổ chức chụp hình công khai và họp báo để giới thiệu chương trình.[66]
Năm tiếp theo, Shinhwa tiếp tục các hoạt động âm nhạc của nhóm với sự ra mắt của album phòng thư thứ mười một và concert kỷ niệm 15 năm hoạt động vào tháng ba 2013[67][68] Shinhwa 15th Anniversary Concert: The Legend Continues tại Olympic Gymnastics Arena.[69][70][71] Trong cùng một ngày thông tin về vé concert và teaser được phát hành.[72][73] 25.000 vé đã bán hết ngay lập tức trong vòng 5 phút khi ước tính có đến 300.000 người muốn mua vé.[74][75] Album thứ mười một của Shinhwa The Classic ra mắt ngày 16 tháng năm năm 2013[76], cùng với đó là chuyến lưu diễn toàn châu Á của nhóm 2013 Shinhwa Grand Tour: The Classic để quảng bá cho album này.
Concert kỷ niệm năm hoạt động thứ 16 của Shinhwa, Here, tổ chức vào ngày 22 và 23 tháng ba năm 2014 tại Nhà thi đấu Thể dục dụng cụ Olympic, đã bán hết được 27.000 vé và đánh sập trang web bán vé.[77] Vì sự cố gây tranh cãi liên quan đến đánh bạc, thành viên Andy đã vắng mặt khỏi buổi diễn[78], tuy nhiên sau đó anh đã gây bất ngờ khi xuất hiện ở cuối concert gửi lời xin lỗi đến khán giả và người hâm mộ.[79]
Vào năm 2015, Shinhwa thông báo sẽ xuất hiện trên tập 800 Inkigayo của đài SBS, bao gồm sự tái xuất của Andy sau thời gian anh tạm ngừng hoạt động, sau khi nhóm vừa phát hành album WE sau hơn hai năm.[80][81] Ca khúc chủ đề "Sniper" được sản xuất bởi LDN Noise [82] đã đứng đầu bảng xếp hạng thời gian thực trên 5 nền tảng Bugs, genie, Olleh Music, Mnet và Cyworld.[82] Video âm nhạc của ca khúc cũng đạt hơn 1 triệu lượt xem trên YouTube sau hai tuần phát hành.[83] Shinhwa đã giành chiến thắng tại Show Champion với ca khúc "Sniper" vào ngày 11 tháng ba năm 2015.[84] Album thứ mười ba của nhóm Unchanging phát hành ngày 1 tháng một năm 2017[85] đã đạt hạng ba ở Bảng xếp hạng Album Thế giới.[86] Nhóm tổ chức concert kỷ niệm 17 năm hoạt động WE SHINHWA vào 22 và 23 tháng tám tại Hàn Quốc. Vào ngày 29 tháng năm, Shinhwa thắng kiện bản quyền thương hiệu cho tên gọi của nhóm sau 12 năm. Các thành viên đã bày tỏ niềm vui mừng sau cuộc chiến pháp luật kéo dài nhiều năm.[87]
2018-nay: Kỷ niệm 20 năm ra mắt và tạm ngừng hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]Nhân dịp kỷ niệm 20 năm hoạt động của nhóm, Shinhwa đã ch ra mắt phiên bản làm lại bao gồm tái thu âm và tái sản xuất video âm nhạc của bài hát "All Your Dreams" trong album Only One.[86] Nhóm cũng khỏi động một buổi gặp mặt người hâm mộ vào ngày 24 và 25 tháng ba năm 2018 để làm tín hiệu cho dự án kỷ niệm 20 năm hoạt động, All Your 2018[88][89] và biểu diễn tại buổi trình diễn kỷ niệm 20 năm của KBS Music Bank cùng với những nghệ sĩ khác.[90]
Vào 28 tháng tám năm 2018, Shinhwa cho ra mắt album đặc biệt mang tên Heart, với ca khúc chủ đề "Kiss Me Like That" và quảng bá trên các sân khấu âm nhạc trong suốt 3 tuần.[91][92] Concert kỷ niệm 20 năm của nhóm Heart Tour tại Seoul vào ngày 6 và 7 tháng mười, đã cháy vé trong vòng 5 phút và dẫn đến sự cố làm trực trặc trang web bán vé.[93]
Vào ngày 20 và 21 tháng tư năm 2019, Shinhwa tổ chức concert kỷ niệm 21 năm hoạt động của họ, CHAPTER 4[94] và thông báo tạm ngừng hoạt động trong năm tiếp theo. Tuy nhiên, thời gian tạm ngừng hoạt động đã diễn ra dài hơn dự kiến và cho đến hết năm 2021, Shinhwa vẫn chưa có bất kỳ hoạt động chung nào. Các thành viên tập trung vào hoạt động cá nhân và nghỉ ngơi trong khoảng thời gian này.
Danh sách đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Album phòng thu
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Thông tin | Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng | Doanh số | |||
---|---|---|---|---|---|---|
KOR RIAK [95][A] |
KOR Gaon [96][B] |
JPN [97] |
US World [98] | |||
Album tiếng Hàn | ||||||
Resolver (tiếng Triều Tiên: 해결사) |
|
— | — | — | — |
|
T.O.P. |
|
3 | — | — |
| |
Only One | 1 | — | — |
| ||
Hey, Come On! |
|
3 | –[a] | — | — | |
Perfect Man | 1 | –[b] | 99 | — | ||
Wedding (tiếng Triều Tiên: 너의 결혼식) |
|
3 | –[c] | 100 | — | |
Winter Story |
|
3 | — | 253 | — |
|
Brand New |
|
1 | 100 | — |
| |
Winter Story 2004–2005 |
|
3 | 158 | — |
| |
State of the Art |
|
1 | — | — |
| |
Volume 9 |
|
1 | 155 | — |
| |
The Return |
|
— | 3 | — | — | |
The Classic |
|
2 | — | — |
| |
We |
|
2 | — | 6 |
| |
Unchanging: Touch |
|
2 | — | — |
| |
Album tiếng Nhật | ||||||
Inspiration #1 |
|
— | — | 12 | — | |
"—" có nghĩa là không nằm trong bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại đó. |
Album trực tiếp
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Thông tin | Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng | Doanh số | ||
---|---|---|---|---|---|
KOR RIAK [133][A] |
JPN [97] | ||||
2001 1st Live Concert |
|
3 | — |
| |
The Everlasting Mythology: Shinhwa 2nd Concert |
|
— | [C] | ||
2005 Japan Tour Live Document |
|
— | [C] | ||
"—" có nghĩa là không nằm trong bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại đó. |
Album tổng hợp
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Thông tin | Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng | Doanh số | ||
---|---|---|---|---|---|
KOR RIAK [138][A] |
KOR Gaon [139][B] |
JPN [97] | |||
My Choice |
|
4 | 17 | — | |
Perfect | — | — | [C] | ||
Best of Shinhwa 2001–2003 |
|
— | — | [C] | |
Best Hits Collection 1998–2003 |
|
— | — | — | |
Precious: Essential Collection |
|
— | — | [C] | |
"—" có nghĩa là không nằm trong bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại đó. |
Box sets
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Thông tin |
---|---|
Shinhwa CD Premium Box |
|
Đĩa mở rộng
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Thông tin | Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng | Doanh số | |
---|---|---|---|---|
KOR RIAK/ Gaon [146][A] | ||||
Summer Story 2005 |
|
— | ||
Winter Story 2006–2007 |
|
2 |
| |
Winter Story 2007 |
|
1 |
| |
Unchanging: Part 1 Orange |
|
2 |
| |
Heart |
|
2 |
| |
"—" có nghĩa là không nằm trong bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại đó. |
Đĩa đơn
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Năm | Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng | Album | ||
---|---|---|---|---|---|
KOR Gaon [154][B] |
KOR Hot 100 [155][D] |
JPN [156] | |||
"Resolver"[157][F] (tiếng Triều Tiên: "해결사") |
1998 | — | — | — | Resolver |
"Eusha! Eusha!"[158] (tiếng Triều Tiên: "으쌰! 으쌰!") | |||||
"Sharing Forever"[159] (tiếng Triều Tiên: "천일유혼"; lit. "Thousand-Year Spirit") | |||||
"T.O.P. (Twinkling of Paradise)"[160] | 1999 | T.O.P. | |||
"Yo! (Brat Report)"[161][F] (tiếng Triều Tiên: "Yo! (악동보고서)") | |||||
"Only One"[162] | 2000 | Only One | |||
"All Your Dreams"[161] | |||||
"First Love" | |||||
"Wedding March (Your Side)"[F] (tiếng Triều Tiên: "Wedding March (너의 곁에서)") | |||||
"Hey, Come On!"[158] | 2001 | Hey, Come On! | |||
"Wild Eyes"[159] | |||||
"My Life Style" | 2002 | My Choice | |||
"Perfect Man"[158] | Perfect Man | ||||
"I Pray 4 U"[159] | |||||
"Wedding" [163](tiếng Triều Tiên: "너의 결혼식") |
너의 결혼식 (Wedding) | ||||
"Addiction (Deep Sorrow)"[164][F] (tiếng Triều Tiên: "중독 (Deep Sorrow)") | |||||
"Young Gunz"[165] | 2004 | Winter Story | |||
"How Do I Say?"[159] | remixes later included on Summer Story 2005 | ||||
"Brand New"[166] | Brand New | ||||
"Fever (Crazy)"[167] (tiếng Triều Tiên: "열병 (Crazy)") | |||||
"Oh!" | |||||
"Angel"[168] | |||||
"2gether 4ever" | |||||
"Hey, Dude"[169] | 2005 | Summer Story 2005 | |||
"Once in a Lifetime"[160] | 2006 | State of the Art | |||
"Throw My Fist"[170] | |||||
"You're My Everything"[158] | |||||
"We Have the Sun in Our Hearts"[171][F][E] (tiếng Nhật: "僕らの心には太陽がある") |
9 | Inspiration #1 | |||
"Just One More Time..."[172][F] (tiếng Triều Tiên: "다시 한번만...") |
2008 | — | Volume 9 | ||
"Run"[173] | |||||
"Evidence (Destiny of Love)"[174][F] (tiếng Triều Tiên: "흔적 (Destiny of Love)") | |||||
"Venus"[175] | 2012 | 6 | 6 | The Return | |
"This Love"[176] | 2013 | 3 | 5 | The Classic | |
"Memory"[177] | 2015 | 15 | — | We | |
"Sniper"[178] (tiếng Triều Tiên: "표적") |
3 | ||||
"Orange" (tiếng Triều Tiên: "오렌지") |
2016 | 42 | Unchanging: Part 1 Orange | ||
"Touch" (tiếng Triều Tiên: "터치") |
2017 | 4 | Unchanging: Touch | ||
"Kiss Me Like That" | 2018 | 81 | Shinhwa Twenty Special Album: Heart | ||
"—" có nghĩa là không nằm trong bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại đó. |
Bài hát khác lọt vào bảng xếp hạng
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Năm | Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng | Album | |
---|---|---|---|---|
KOR Gaon [179][B] |
KOR Hot 100 [180][D] | |||
"Be My Love" | 2012 | 89 | — | The Return |
"Hurts" | 43 | 30 | ||
"Let It Go" | 83 | — | ||
"Move With Me" | 88 | — | ||
"On the Road" | 73 | 48 | ||
"Red Carpet" | 85 | — | ||
"Stay" | 84 | — | ||
"Welcome" | 97 | — | ||
"Acquainted Guy"[F] (tiếng Triều Tiên: "아는 남자") |
2013 | 99 | — | The Classic |
"Alright" | 2015 | 58 | — | We |
"Cat" (tiếng Triều Tiên: "고양이") |
89 | |||
"Don't Cry" | 91 | |||
"Give It 2 Me" | 95 | |||
"Ice Moon"[F] (tiếng Triều Tiên: "얼음달") |
94 | |||
"I'm in Love" | 96 | |||
"White Shirts" | 87 | |||
"—" có nghĩa là không nằm trong bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại đó. |
Xuất hiện trong những album khác
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Năm phát hành | Album |
---|---|---|
"Merry Christmas" | 1999 | Christmas in SMTown[181] |
"Prayer"[F] (tiếng Triều Tiên: "기도") |
2000 | Christmas Winter Vacation in SMTown.com: Look Out the Window[182] |
"Rudolph the Red-Nosed Reindeer" (tiếng Triều Tiên: "루돌프 사슴코") | ||
"White Paradise" | ||
"We Wish You a Merry Christmas" | 2001 | Winter Vacation in SMTown.com: Angel Eyes[183] |
"White Love" | ||
"12:00 N" | Guardian Angel: 수호천사[184] | |
"Hero" | 2002 | 2002 Summer Vacation in SMTown.com[185] |
"For This Time"[F] (tiếng Triều Tiên: "이번만큼은") |
2002 Winter Vacation in SMTown.com: My Angel My Light[186] | |
"Silver Bells" Kangta, Shin Hye-sung, and Isak N Jiyeon | ||
"Snow Baby" Kim Dong-wan, Jun Jin, and Fly to the Sky | ||
"I Miss You" Yoo Soo-young, Eric Mun, Andy Lee, and Shinvi | ||
"Look Out the Window"[F] (tiếng Triều Tiên: "창 밖을 보라") Moon Hee-jun, Lee Min-woo | ||
"I Pray 4 U" (Remix) | 2003 | 2003 Summer Vacation in SMTown.com[187] |
"Just Be My Love" | 2005 | The 101st Proposal OST[188] |
"That Day"[F] (tiếng Triều Tiên: "그날이 오면") |
Super Rookie OST[189] |
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]- Năm 2000
- Giải Danh tiếng tại SBS Music Awards 2000
- Giải Bình chọn tại KMTV Song Awards 2000
- Giải Nghệ sĩ yêu thích tại KMTV Song Awards 2000
- Năm 2001
- Giải Bình chọn tại KBS Music Awards 2001
- Giải Bình chọn tại SBS Music Awards 2001
- Giải Bình chọn tại Korean Golden Disk Awards lần thứ 16
- Giải Bình chọn tại Seoul Music Awards lần thứ 12
- Giải Nghệ sĩ yêu thích tại KMTV Song Award 2001
- Giải Nhóm nhạc nam xuất sắc tại MAMA 2001
- Năm 2002
- Giải Bình chọn tại Korean Golden Disk Awards lần thứ 17
- Giải Bình chọn tại Seoul Music Awards lần thứ 13
- Giải Nhóm nhạc nam xuất sắc tại MAMA 2002
- Năm 2003
- Giải Bình chọn tại Korean Golden Disk Awards lần thứ 18
- Giải Bình chọn tại Seoul Music Awards lần thứ 14
- Giải Bình chọn tại SBS Music Festival Awards 2003
- Năm 2004
- Giải Bình chọn tại KBS Music Awards 2004
- Giải Bình chọn tại SBS Music Festival Awards 2004
- Giải Cống hiến tại SBS Music Festival Awards 2004
- Giải Nghệ sĩ của năm tại SBS Music Festival Awards 2004
- Giải Bình chọn tại Seoul Music Awards lần thứ 15
- Giải Nghệ sĩ của năm tại Seoul Music Awards lần thứ 15
- Giải Bình chọn tại Korea Fashion World Awards lần thứ 2
- Giải Trình diễn nhóm tại MAMA 2004
- Giải Bình chọn nước ngoài tại MAMA 2004
- Giải Bình chọn tại Korean Golden Disk lần thứ 19
- Giải Ăn ảnh nhất tại South Korean Image Contest Award 2004
- Giải Bình chọn tại MBC Music Awards 2004
- Năm 2005
- Giải Nghệ sĩ Hàn Quốc được yêu thích nhất tại MTV Asia Music Awards 2005
- Năm 2006
- Giải Bình chọn nước ngoài tại MAMA 2006
- Giải Bình chọn tại Korean Golden Disk lần thứ 20
- Giải Bình chọn tại SBS Music Festival Awards 2006
- Giải Bình chọn tại Seoul Music Awards lần thứ 17
- Năm 2007
- Giải Bình chọn nước ngoài tại MAMA 2007
- Giải Nghệ sĩ châu Á xuất sắc nhất tại Japanese Golden Disk lần thứ 21
- Năm 2008
- Giải Bình chọn tại Korean Golden Disk lần thứ 22
Tranh cãi
[sửa | sửa mã nguồn]Rời SM Entertainment
[sửa | sửa mã nguồn]Vào năm 2003, hợp đồng 5 năm của SM Entertainment với Shinhwa kết thúc. Lee Soo-man, người đứng đầu SM Entertainment, đã đề nghị gia hạn hợp đồng với tất cả các thành viên trừ Dongwan. Thay vào đó, nhóm đã lựa chọn ký hợp đồng với một công ty mới, sự lựa chọn này đã gây ra tranh cãi khi Lee Soo-man từ chối cho phép họ sử dụng cái tên Shinhwa dưới một công ty khác. Đỉnh điểm của trận chiến diễn ra vào tháng 9 năm 2014, nhóm đã phải đổi tên công ty chủ quản Shinhwa Company thành ShinCom Entertainment,[190] để tránh các vấn đề pháp lý. Vào tháng 5 năm 2015, sau 12 năm đấu tranh pháp lý, Shinhwa cuối cùng đã thắng vụ kiện với Joon Media và đổi tên công ty của họ thành Shinhwa Company. CEO của Open World Entertainment, Seok-Woo Jang, chủ sở hữu bản quyền đối với cái tên Shinhwa, được cấp quyền sử dụng tên miễn là họ biểu diễn cùng nhau như một nhóm. Open World nắm giữ quyền sở hữu đối với các buổi hòa nhạc ở nước ngoài của Shinhwa với Shinhwa Company và cấp phép ở nước ngoài cho các album của nhóm. Những người đứng đầu Top Class Entertainment và Liveworks Company là giám đốc của Shinhwa Company, với Top Class Entertainment phụ trách quảng bá và quản lý nói chung, và Liveworks Company cung cấp hỗ trợ liên quan đến album, buổi hòa nhạc và quảng bá.[191]
Đời tư
[sửa | sửa mã nguồn]Hôn nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 1 tháng 7 năm 2017, Eric là thành viên đầu tiên của Shinhwa kết hôn. Lễ cưới của anh cùng nữ diễn viên Na Hyemi đã được tổ chức tại một nhà thờ ở quận Jung, Seoul. Tất cả các thành viên của Shinhwa đã xuất hiện với vai trò là phù rể để chúc phúc cho anh trong ngày đặc biệt này.
Vào ngày 27 tháng 9 năm 2019, theo như thông báo trước đó, Jun Jin là thành viên thứ hai của Shinhwa kết hôn. Được biết, vị hôn thê của anh là một tiếp viên hàng không và lễ cưới có sự góp mặt của các thành viên Shinhwa cùng cuộc sống hôn nhân của cả hai đã được tiết lộ qua chương trình "You Are My Destiny", một chương trình với sự tham gia của các cặp đôi đã kết hôn là người nổi tiếng của đài SBS.[192]
Vào ngày 19 tháng 1 năm 2022, Andy là thành viên tiếp theo thông báo kết hôn với một phát thanh viên từng làm việc cho đài MBC Jeju. Lễ cưới của cả hai dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 12 tháng 6.[193]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ He, Amy (ngày 23 tháng 7 năm 2013). “What the Backstreet Boys Could Learn From K-Pop”. The Atlantic. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
- ^ Hong, Grace Danbi (ngày 26 tháng 7 năm 2013). “The Atlantic Tells Backstreet Boys to Learn from Shinhwa”. enewsWorld. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
- ^ Lee, Sun-min (ngày 27 tháng 7 năm 2013). “Shinhwa keeps leading way”. Joongang Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
- ^ Huh, Yoon-jin (ngày 29 tháng 7 năm 2013). “Shinhwa's longevity introduced in US magazine”. Korea Times. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
- ^ “Shinhwa to hold fan event in celebration of 20th anniv”. Yonhap News Agency (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2018.
- ^ Han, Eun-Hwa; Park, Hyun-Taek (ngày 2 tháng 3 năm 2015). “Shinhwa at it again with 12th album”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2018.
- ^ 지민경. “김동완, 신화 전진·신혜성·이민우와 한솥밥..라이브웍스컴퍼니와 계약 [공식]”. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2022.
- ^ “Jun Jin signs five-year contract with Liveworks”. koreajoongangdaily.joins.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2022.
- ^ “Shinhwa”, Wikipedia (bằng tiếng Anh), 30 tháng 1 năm 2022, truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022
- ^ Herman, Tamar; Herman, Tamar (27 tháng 3 năm 2018). “K-Pop Boy Band Shinhwa Celebrates 20th Anniversary With Remake of 'All Your Dreams' Music Video: Watch”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Shinhwa at it again with 12th album”. koreajoongangdaily.joins.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ a b “The Shinhwa story: 20 years young & still going strong | Shinwha bio”. KultScene (bằng tiếng Anh). 5 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “[FIRST GEN FRIDAY] Shinhwa 신화”. UnitedKpop (bằng tiếng Anh). 31 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Eric Steps Out of Character for 'Recruit'”. english.chosun.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ [https://web.archive.org/web/20050413034844/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_199908.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 13 tháng 4 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20070718172728/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200005.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 18 tháng 7 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20070718173238/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200010.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 18 tháng 7 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ a b c d “Shinhwa: The Last Group Standing”. Seoulbeats (bằng tiếng Anh). 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ [https://web.archive.org/web/20080505045306/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200106.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 5 tháng 5 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ a b [https://web.archive.org/web/20080514131013/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200201.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 14 tháng 5 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20040926015035/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_2001_2h.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 29 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ a b [https://archive.today/20090228162941/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_2002_2h.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 29 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20070927031244/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200208.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 27 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “Single Sun”. archive.ph. 30 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ [https://web.archive.org/web/20070927031007/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200303.htm “:: �ѱ����ݻ����ȸ ::”]. web.archive.org. 27 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 4 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “Asia Pacific Arts: Feb. 6, 2004: News From Abroad”. web.archive.org. 5 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ https://web.archive.org/web/20070711172224/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200411.htm. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ https://web.archive.org/web/20080607111950/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200408.htm. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20070929090954/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_2004.htm “2004�� �Ѱ�� �������� �Ǹŷ�����”]. web.archive.org. 29 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 5 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “싸니까 믿으니까 인터파크 티켓”. ticket.interpark.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “神话SHINHWA出道18周年 26日27日举行演唱会|娱乐|半岛网”. yule.bandao.cn. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “[Video] G.Na, Seungri, Hyosung, and Gain′s Past on ′Battle Shinhwa′”. sg.news.yahoo.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ [https://web.archive.org/web/20051219042041/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200503.htm “3�� �������� �Ǹŷ�����”]. web.archive.org. 19 tháng 12 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 2 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20070927032933/http://miak.or.kr/stat/Kpop_200609.htm “9�� �������� �Ǹŷ�����”]. web.archive.org. 27 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 2 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20070929090841/http://miak.or.kr/stat/kpop_2006.htm “11�� �������� �Ǹŷ�����”]. web.archive.org. 29 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 3 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “The Chosun Ilbo (English Edition): Daily News from Korea - Park Yong-ha, Shinhwa Too Popular to Land at Haneda”. web.archive.org. 5 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. web.archive.org. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “AsianDB.com”. www.asiandb.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Shinhwa Members Go Solo This Summer(The Korea Times)”. web.archive.org. 28 tháng 6 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “KBS GLOBAL”. web.archive.org. 3 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “KBS GLOBAL”. web.archive.org. 9 tháng 10 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa finally returns as one”. archive.ph. 18 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ [https://web.archive.org/web/20080430233836/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200712.htm “���� ����”]. web.archive.org. 30 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 1 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20080430133630/http://www.miak.or.kr/stat/kpop_200801.htm “���� ����”]. web.archive.org. 30 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 1 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “KBS GLOBAL”. web.archive.org. 23 tháng 3 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Asianpopcorn - Powered by Discuz!”. www.asianpopcorn.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “[TALK OF THE TOWN]Boot camp beckons for boy band balladeer-INSIDE Korea JoongAng Daily”. web.archive.org. 5 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ [https://web.archive.org/web/20140602202344/http://www.asiae.co.kr/news/view.htm?idxno=2009102214570086779 “Fans from Asia see off Jun Jin to army - �ƽþư���”]. web.archive.org. 2 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 42 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “The Chosun Ilbo (English Edition): Daily News from Korea - Singer Andy to Start Military Service”. web.archive.org. 4 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ [https://web.archive.org/web/20141214143900/http://www.asiae.co.kr/news/view.htm?idxno=2010110122163020473 “Shinhwa Eric discharged from military - �ƽþư���”]. web.archive.org. 14 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 41 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “Shinhwa singer discharged-INSIDE Korea JoongAng Daily”. web.archive.org. 5 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Today's Photo: November 1, 2011 - The Chosun Ilbo (English Edition): Daily News from Korea”. web.archive.org. 4 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ [https://web.archive.org/web/20140605052743/http://www.asiae.co.kr/news/view.htm?idxno=2011111115072699823 “Jun Jin to be discharged from military next week - �ƽþư���”]. web.archive.org. 5 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 52 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “Lee Min Woo's Release on March 2 to Mark the Comeback of Shinhwa”. web.archive.org. 22 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “The Chosun Ilbo (English Edition): Daily News from Korea - Shinhwa Form Their Own Agency”. web.archive.org. 4 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa hopes to remain Korea's longest-running boy band”. web.archive.org. 15 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa's comeback press conference to be streamed live-INSIDE Korea JoongAng Daily”. web.archive.org. 16 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa press conference to be broadcast live online”. web.archive.org. 9 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa press conference to be broadcast live online | YONHAP NEWS”. web.archive.org. 9 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa press conference to be broadcast live online”. web.archive.org. 15 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ [https://web.archive.org/web/20150202164452/http://www.asiae.co.kr/news/view.htm?idxno=2012020109043546617 “Shinhwa releases teaser video for upcoming concert - �ƽþư���”]. web.archive.org. 2 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 54 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20150202174144/http://www.asiae.co.kr/news/view.htm?idxno=2012032611004746965 “[CONCERT REVIEW] Shinhwa: Reborn with "THE RETURN" - �ƽþư���”]. web.archive.org. 2 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 54 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ [https://web.archive.org/web/20131109154324/http://www.asiae.co.kr/news/view.htm?idxno=2012011917121473202 “Shinhwa to hold Asia tour in May - �ƽþư���”]. web.archive.org. 9 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022. replacement character trong
|tựa đề=
tại ký tự số 36 (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ “Shinhwa wraps up Asian tour-INSIDE Korea JoongAng Daily”. web.archive.org. 18 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa to Take Over Television with ′Shinhwa Broadcast′”. web.archive.org. 21 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa Fulfills Its Dreams with Its Own Variety Show”. web.archive.org. 22 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa to Return in March For 15th Anniversary Concert”. web.archive.org. 22 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Legendary idol group, Shinhwa, to hold concert in March - STARNEWS”. web.archive.org. 2 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ tenasia.hankyung.com, Digital. “텐아시아 홈”. 텐아시아 연예뉴스 (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Shinhwa fulfills performance pledge-INSIDE Korea JoongAng Daily”. web.archive.org. 14 tháng 12 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa holds a concert in March”. web.archive.org. 12 tháng 12 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa Confirms 15th Anniversary Concerts in March and New Album in April”. web.archive.org. 22 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “[Video] Shinhwa Releases Information on '15th Anniversary Concert'”. web.archive.org. 22 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa's concert tickets sold out in 5 minutes”. web.archive.org. 12 tháng 12 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa tickets gone in five minutes-INSIDE Korea JoongAng Daily”. web.archive.org. 22 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa release their 11th studio album on May 16 - STARNEWS”. web.archive.org. 16 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa Sells Out 27,000 Seats for 16th Anniversary Concert”. web.archive.org. 24 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Shinhwa to hold 16th anniversary show minus Andy”. web.archive.org. 6 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Andy surprised Shinhwa fans-INSIDE Korea JoongAng Daily”. web.archive.org. 15 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa to Appear on 800th Episode Special of Inkigayo”. web.archive.org. 22 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Shinhwa to Return with 12th Album ′WE′ on 226”. web.archive.org. 10 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ a b http://www.allkpop.com/article/2015/02/shinhwas-comeback-track-sniper-tops-5-music-charts.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ http://www.kpopstarz.com/articles/182929/20150312/shinhwas-sniper-shoots-past-1-million-views-youtube.htm.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ http://www.allkpop.com/article/2015/03/shinhwa-win-with-sniper-on-show-champion.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ https://entertain.naver.com/read?oid=117&aid=0002854126&gid=999339&cid=1052169.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ a b https://www.billboard.com/articles/columns/k-town/8262286/k-pop-boy-band-shinhwa-20th-anniversary-remake-all-your-dreams.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ https://www.soompi.com/article/736667wpp/shinhwa-wins-trademark-rights-to-their-group-name-after-12-years.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ http://www.xportsnews.com/jenter/?ac=article_view&entry_id=956584&_REFERER=.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ https://entertain.naver.com/now/read?oid=003&aid=0008393373.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ http://kbsworld.kbs.co.kr/news/news_view.php?no=18472&sec=enter.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ https://www.billboard.com/music/music-news/shinhwa-kiss-me-like-that-video-8472754/.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ https://www.soompi.com/article/1221379wpp/watch-shinhwa-sings-kiss-like-title-track-mv-20th-anniversary-album.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ http://world.kbs.co.kr/service/contents_view.htm?lang=e&menu_cate=artist&id=&board_seq=347255&page=0&board_code=music_concert.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ http://world.kbs.co.kr/service/contents_view.htm?lang=e&board_seq=361258.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ Monthly RIAK album chart references for Shinhwa studio albums:
- “T.O.P. (Twinkling of Paradise) (May 1999)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- “Only One (May 2000)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- “Hey, Come On! (June 2001)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- “Perfect Man (March 2002)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- “Wedding (December 2002)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- “Winter Story (January 2003)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- “Brand New (November 2004)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- “Winter Story 2004–2005 (December 2004)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- “State of the Art (August 2006)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2007.
- “Volume 9 (April 2008)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2008.
- ^ Weekly Gaon Album Chart references for Shinhwa albums:
- “Hey, Come On!, Perfect Man, and Wedding (Week ending November 23, 2013)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
- “The Return (Week ending March 24, 2012)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
- “The Classic (Week ending May 25, 2013)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
- “We (Week ending March 7, 2015)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b c “Weekly Oricon chart references for Shinhwa albums” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2013.
- ^ Weekly Billboard World Albums chart references for Shinhwa albums:
- “We (Week of March 14, 2015)”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Shinhwa album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2015.
- ^ 4월~9월 가요음반판매누계수량 [Total record album sales from April to September] (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 1999.
- ^ “T.O.P album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2015.
- ^ “Album Sales For The Month Of August 1999” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Only One album info”. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Only One album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2015.
- ^ “Album Sales For The Month Of October 2000” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Hey, Come On! album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b c “Gaon Weekly Album Chart for Week ending November 23, 2013”. Gaon (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales For The Month Of January 2002” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- ^ a b c d “Album Chart for November 2013” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Perfect Man album info”. CJ E&M. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2012.[liên kết hỏng]
- ^ a b c “2002 Yearly Chart” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2008.
- ^ “너의 결혼식 (Wedding) album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales for the First Half of 2003” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Winter Story album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales for the First Half of 2004” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Brand New album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales For The Month Of January 2005” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Winter Story 2004–2005 album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales For The Month Of March 2005” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- ^ “State Of The Art album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2006 Yearly Chart” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Volume 9 album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales For The Month Of April 2008” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Return album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ 2012년 Album Chart [2012 Album Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2015.
- ^ 2013년 08월 Album Chart [Album Chart for August 2013]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
- ^ “The Classic album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ 2013년 Album Chart [2013 Album Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
- ^ “We album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ 2015년 Album Chart [2015 Album Chart]. Gaon Music Chart. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2021.
- ^ 2017년 Album Chart [2017 Album Chart]. Gaon Music Chart. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Inspiration #1”. Oricon. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ Monthly RIAK chart references for Shinhwa live albums:
- “2001 1st Live Concert (March 2001)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
- ^ “2001 1st Live Concert album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales for 2001” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
- ^ “The Everlasting Mythology: Shinhwa 2nd Concert album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2005 Japan Tour Live Document album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ Monthly RIAK chart references for Shinhwa compilation albums:
- “My Choice (January 2001)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2007.
- ^ Weekly Gaon Album Chart references for Shinhwa compilation albums:
- “My Choice (Week ending November 23, 2013)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
- ^ “My Choice album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Perfect album info” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Best of Shinhwa 2001–2003 album info” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Best Hits Collection 1998–2003 album info” (bằng tiếng Trung). Avex Taiwan. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Precious: Essential Collection album info” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Shinhwa CD Premium Box info” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ Monthly RIAK chart references for Shinhwa EPs:
- “Winter Story 2006–2007 (January 2007)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
- “Winter Story 2007 (December 2007)” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2008.
- “Heart (September 2018)”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2018.
- ^ “Summer Story 2005 album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Winter Story 2006–2007 album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales for 2007” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Winter Story 2007 album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Album Sales For The Month Of January 2008” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2008.
- ^ “2016년 12월 (December 2016) Album Chart” (bằng tiếng Hàn).
- ^ “2018 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2019.
- ^ Weekly Gaon Digital Chart references for Shinhwa singles:
- “"Venus" (Week ending March 31, 2012)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
- “"This Love" (Week ending May 25, 2013)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
- “"Memory" (Week ending February 7, 2015)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- “"Sniper" (Week ending March 14, 2015)”. Gaon (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
- “"Kiss Me Like That" (Week ending September 1, 2018)”. Gaon (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2018.
- ^ Weekly Billboard K-Pop Hot 100 chart references for Shinhwa singles:
- “"Venus" (Week of April 7, 2012)”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- “"This Love" (Week of June 1, 2013)”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Weekly Oricon: chart references for Shinhwa singles” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
- ^ Ha Soo-jung (21 tháng 1 năm 2015). “Shinhwa to Appear on 800th Episode Special of Inkigayo”. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b c d Lee, Kyu-lim (이규림) (15 tháng 7 năm 2006). '어깨 탈골' 김동완, 팔 보호대 하고 무대로 복귀 (bằng tiếng Hàn). MyDaily. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b c d Shin, Ki-won (신기원) (20 tháng 8 năm 2006). 신화, 첫 태국 공연 성황리에 마쳐 (bằng tiếng Hàn). Yonhap. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b Park, HyunMin (9 tháng 7 năm 2012). “[Concert Review] Shinhwa Colors Beijing Orange with Finale of Asia Tour”. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b Kim, So-young (김소연) (27 tháng 5 năm 2013). 신화 변함없는 인기 원동력, 15년 역사로 살펴보니.... No Cut News (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Lee, Kyung-nam (27 tháng 3 năm 2012). “Shinhwa Goes Silly Yet Shines in 'Only One' Practice Video”. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Shinhwa Returns”. KBS Radio. 18 tháng 1 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Cho Jeong-won (조정원) (9 tháng 7 năm 2012). '아시아 투어' 신화, '이들의 밤은 낮보다 길었다'. The Korea Herald (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Shinhwa Released New Album”. KBS Radio. 2 tháng 1 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Lee, Kyung-nam (29 tháng 3 năm 2012). “Was Success Sweeter for Shinhwa after Leaving SM?”. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Autumn in Korean pop music is full of "diseases"”. KBS Radio. 29 tháng 10 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ 신화 1년 10개월만에 7집 활동 돌입 (bằng tiếng Hàn). Gangwon Ilbo. 20 tháng 9 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ (Seo Byeong-gi (서병기)) (13 tháng 4 năm 2005). “신화,코카콜라 CF 배경음악 'Hey, Dude!' 디지털 싱글로 발표”. The Korea Herald (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Lee, Seung-woo (이승우) (6 tháng 12 năm 2007). 신화, 오늘 日 대규모 콘서트 개최. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Yoo, Hye-eun (유혜은) (4 tháng 6 năm 2012). 신화, 日 열도 주황물결로 물들여... 원조 한류 스타다운 뜨거운 호응 (bằng tiếng Hàn). EToday. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Kim, Hyeong-woo (김형우) (21 tháng 3 năm 2008). “신화 데뷔 10주년 기념곡 '다시 한번만' 선공개, 5만장 한정판 앨범 발매”. Newsen. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Kim, Myeong-shin (김명신) (8 tháng 4 năm 2008). “신화, 멤버 전원 갱단으로 변신한 9집 타이틀곡 'RUN' M/V 공개!” (bằng tiếng Hàn). Hankyung Kyeongje. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Kim, Myeong-shin (김명신) (4 tháng 7 năm 2008). 신화, 2만장 한정 리패키지 발매...신곡 '흔적' 공개! (bằng tiếng Hàn). Hankyung Kyeongje. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
- ^ Oh, MiJung (26 tháng 3 năm 2012). “Shinhwa Returns with Its 14 Years' Worth of Energy”. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2015.
- ^ Kim, Erika (15 tháng 5 năm 2013). “[Video] Shinhwa Releases BTS Video from Its MV for ′This Love′”. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Shinhwa is back with 12th album”. The Korea Times. 3 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2015.
- ^ Yoon Sarah (27 tháng 2 năm 2015). “Shinhwa launches onstage comeback with 'Sniper'”. K-Pop Herald. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2015.
- ^ Weekly Gaon Digital Chart chart references for other Shinhwa songs:
- “"Be My Love", "Hurts", "Let It Go", "Move With Me", "On the Road", "Red Carpet", "Stay", and "Welcome" (Week ending March 24, 2012)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
- “"Acquanited Guy" (Week ending May 18, 2013)” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
- “"Cat", "Don't Cry", "Ice Moon", "I'm in Love", and "White Shirts" (Week ending February 28, 2015)” (bằng tiếng Hàn). Korean Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- “"Alright" (Week ending March 7, 2015)” (bằng tiếng Hàn). Korean Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
- ^ Weekly Billboard K-Pop Hot 100 chart references for other Shinhwa songs:
- “"Hurts" and "On the Road" (Week of April 7, 2012)”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Christmas in SMTown.com album info” (bằng tiếng Hàn). CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Christmas In SMTown.com: Look Out the Window album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Winter Vacation In SMTown.com album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Guardian Angel:수호천사 album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
- ^ “02 Summer Vacation In SMTown.com album info” (bằng tiếng Hàn). CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2002 Winter Vacation In SMTown.com album info” (bằng tiếng Hàn). CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2003 Summer Vacation In SMTown.com album info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “The 101st Proposal OST info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Super Rookie OST info” (bằng tiếng Hàn). Hanteo. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
- ^ Kim, Ji-yeon. “Shinhwa Company Changes Name to 'ShinCom Entertainment' to Prevent Trademark Problems”. Mwave. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Shinhwa announces launching of Shinhwa Company”. 10 Asia. ngày 2 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Jun Jin (SHINHWA) newly-married, his wife, former CA is released at the fastest speed. He says "Walking angel" She says "Reliable husband" | WoW!Korea”. www.wowkorea.live. 29 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2022.
- ^ “Andy (Shinhwa) thông báo kết hôn, danh tính cô dâu được tiết lộ”. Billboard Việt Nam. 21 tháng 1 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2022.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Trang chủ của SHINHWA COMPANY (tiếng Hàn)
- Kênh YouTube của SHINHWA COMPANY
- Trang Twitter của SHINHWA COMPANY
- Trang Facebook của SHINHWA COMPANY
- Trang chủ của SHINHWA tại SM Entertainment Lưu trữ 2012-11-20 tại Wayback Machine (1998-2003) (tiếng Hàn)
- Trang chủ của SHINHWA tại Good Entertainment Lưu trữ 2012-07-12 tại Wayback Machine (2004 - 2008) (tiếng Hàn)
- Fanclub của SHINHWA tại Việt Nam Lưu trữ 2013-06-22 tại Wayback Machine (tiếng Hàn)
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/>
tương ứng