Bước tới nội dung

Seamus Heaney

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Seamus Heaney
Sinh13 tháng 4 năm 1939
Gần Castledawson, Ireland
Mất30 tháng 8 năm 2013
Dublin, Ireland
Nghề nghiệpNhà thơ
Giai đoạn sáng tác1966–2013
Trào lưuHiện đại

Ảnh hưởng bởi

Seamus Jastin Heaney (13 tháng 4 năm 1939 - 30 tháng 8 năm 2013) là một nhà thơ người Ireland, nhận Giải Nobel Văn học năm 1995.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Seamus Heaney năm 1970

Seamus Heaney sinh tại một làng quê của Bắc Ireland (gần Belfast); khi 12 tuổi ông nhận được học bổng và đến học tại trường Cao đẳng St. Columb (St Columb College) và tốt nghiệp Đại học Hoàng gia Belfast năm 1961. Từ 1975 đến 1980 ông dạy học tại Carysfort College (Dublin). Năm 1982, ông dạy tại Đại học Harvard và năm 1984 được phong hàm giáo sư; từ 1989 đến 1994, ông dạy ở Đại học Oxford. Những vần thơ đầu tiên ông viết khi còn là giáo viên ở Belfast, tập thơ đầu tay Death of a naturalist (Cái chết của nhà tự nhiên học) ra đời năm 1966. Các tập thơ Door into the dark (Cánh cửa mở vào bóng đêm, 1969), Wintering out (Hết mùa đông, 1972) tiếp tục những mô-típ quen thuộc: cái chết và đất đai. Đất đai là biểu tượng của số phận, là nguồn gốc của tất cả, là sự kết hợp giữa tàn phá và dựng xây, của sự yên nghỉ muôn đời và sự hồi sinh lại. Các tiểu luận của ông The government of the tongue (Quyền lực của ngôn từ) và Thơ ca đứng lên bày tỏ những suy nghĩ về trách nhiệm công dân đối với số phận của đất nước bị chia cắt và tàn phá. Bản dịch thiên sử thi thời trung cổ Boewulf của ông ra tiếng Anh hiện đại được xếp là cuốn sách best-seller năm 2000AnhMỹ. Quyển "Death of a Naturalist" của ông đã đoạt Giải Somerset Maugham năm 1968.

Seamus Heaney là thành viên của Viện Hàn lâm Văn họcNghệ thuật Ireland, thành viên nước ngoài của Viện Hàn lâm Văn họcNghệ thuật Hoa Kỳ; ông cũng được nhận nhiều bằng danh dự của các trường đại học. Năm 1996, Seamus Heaney là người thứ tư của Ireland được trao giải Nobel, vì ông đã sáng tạo ra 9 tập thơ mang "vẻ đẹp trữ tình và chiều sâu thẩm mỹ, tôn vinh những phép lạ của đời thường và của quá khứ sống động". Đối với Seamus Heaney, nhiệm vụ của nhà thơ là bảo vệ cái đẹp, đặc biệt là khi các chế độ độc tài tiêu diệt nó. Ngoài ra, ông còn nhận được giải thưởng nghệ thuậtvăn chương do Bộ Văn hóa Pháp trao tặng.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]
Trung tâm Seamus Heaney ở Đại học Hoàng gia Belfast, Bắc Ireland
  • Death of a naturalist (Cái chết của nhà tự nhiên học, 1966), thơ
  • Door into the dark (Cánh cửa mở vào bóng đêm, 1969), thơ
  • Wintering out (Hết đông, 1972), thơ
  • North (Miền Bắc, 1975), thơ
  • Field work (Công việc đồng áng, 1979), thơ
  • Preoccupations (Những mối bận tâm, 1980), tập tiểu luận của thời kì 1968-1978
  • Sweeney astray (Lạc đường, 1984), thơ
  • Station Island (Đồn đảo, 1984), thơ
  • The haw lantern (Ngọn đèn sơn tra, 1987), thơ
  • The government of the tongue (Quyền lực của ngôn từ, 1988), tiểu luận
  • Seeing things (Thấy sự vật, 1991), thơ
  • The cure at Troy (Việc chữa bệnh ở Troy, 1991), kịch
  • Essays on the contemporary poetry of Northern Ireland (Tiểu luận về thơ ca đương đại Bắc Ireland, 1992), nghiên cứu phê bình
  • A collection of critical essays (Tập tiểu luận phê bình, 1993), tiểu luận
  • The redress of poetry (Điều chỉnh lại thơ ca, 1995), tiểu luận
  • The spirit level (Cấp độ của tâm hồn, 1996), thơ
  • Electric light (Ánh điện, 2001), thơ
  • District and Circle (2006)

Một số bài thơ

[sửa | sửa mã nguồn]
Valediction
 
Lady with the frilled blouse
And simple tartan skirt,
Since you have left the house
Its emptiness has hurt
 
All thought. In your presence
Time rode easy, anchored
On a smile; but absence
Rocked love's balance, unmoored
 
The days. They buck and bound
Across the calendar
Pitched from the quiet sound
Of your flower-tender
 
Voice. Need breaks on my strand;
You've gone, I am at sea.
Until you resume command
Self is in mutiny.
 
Lovers on Aran
 
The timeless waves, bright, sifting, broken glass,
Came dazzling around, into the rocks,
Came glinting, sifting from the Americas
 
To posess Aran. Or did Aran rush
to throw wide arms of rock around a tide
That yielded with an ebb, with a soft crash?
 
Did sea define the land or land the sea?
Each drew new meaning from the waves' collision.
Sea broke on land to full identity.
 
Saint Francis and the birds
 
When Francis preached love to the birds,
They listened, fluttered, throttled up
Into the blue like a flock of words
 
Released for fun from his holy lips.
Then wheeled back, whirred about his head,
Pirouetted on brother's capes,
 
Danced on the wing, for sheer joy played
And sang, like images took flight.
Which was the best poem Francis made,
 
His argument true, his tone light.
 
Scaffolding
 
Masons, when they start upon a building,
Are careful to test out the scaffolding;
 
Make sure that planks won't slip at busy points,
Secure all ladders, tighten bolted joints.
 
And yet all this comes down when the job's done,
Showing off walls of sure and solid stone.
 
So if, my dear, there sometimes seem to be
Old bridges breaking between you and me,
 
Never fear. We may let the scaffolds fall,
Confident that we have built our wall.
Giã biệt
 
Cô em mặc váy kẻ ô
Và chiếc áo choàng đơn giản
Từ ngày cô bỏ nhà đi
Ngôi nhà tiêu điều, hoang vắng.
 
Khi em có mặt
Thời gian thả neo
Trên nụ cười, nhưng em đi mất
Nhổ neo, choáng váng tình yêu.
 
Tháng ngày vội vàng, gấp rút
Đi qua hết gần cuốn lịch
Dồn vào lặng lẽ âm thanh
Của giọng nói em dịu dàng.
 
Thiếu em, tan tác bến bờ anh
Em đi rồi, anh một mình trên biển
Đến một ngày em chưa bỏ lệnh
Thì anh vẫn còn nổi loạn, cuồng điên.
 
Yêu dấu Aran
 
những con sóng muôn đời, sạch sẽ, trắng trong, kính vỡ
đi vào vách đá, làm cho mắt lóa, sững sờ
những con sóng đến từ hai châu Mỹ.
 
chinh phục Aran. Hay là Aran vội vã
giang rộng vòng tay của đá bên con nước thủy triều
có phải chết con nước ròng và nhẹ nhàng tan vỡ?
 
biển vạch ranh giới với đất liền, hay đất với biển?
biển xâm phạm đất liền để hòa quyện vào nhau
theo cách của mình, ý nghĩa từng con sóng.
 
Thánh Francis và chim
 
Khi Francis rao giảng tình yêu cho chim
Chúng lắng nghe, đập, vỗ cánh rồi bay
Lên trời xanh, giống như một bầy lời.
 
Lời mua vui từ môi thánh của Ngài.
Sau quay trở lại trên đầu bay lượn
Nhảy múa trên chiếc mũ của anh trai.
 
Nhảy trên cánh, những con chim đùa vui
Và hát lên, như hình ảnh đang bay.
Bài thơ hay nhất mà Francis thể hiện
 
Lý lẽ chính xác và giọng Ngài mềm mỏng.
 
Giàn giáo
 
Những người thợ khi bắt đầu xây nhà
Kiểm tra kỹ xem giàn giáo chắc chưa
 
Để không bị rơi từ trên cao xuống
Kiểm tra thang, bắt vít ốc chắc chắn
 
Xây xong rồi mà đổ xuống ai cần
Bởi đá cứng, chắc chắn những bức tường.
 
Thì chuyện của anh và em cũng vậy
Em ngỡ rằng cây cầu xưa đã gãy
 
Em đừng sợ. Dù cho giàn giáo rơi
Nhưng ta đã xây tường chắc chắn rồi.
Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]