Sống chung với COVID-19
Giao diện
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sống chung với COVID-19 (tiếng Anh: Living with COVID-19) là cụm từ tu từ với định nghĩa chưa rõ ràng, được sử dụng chủ yếu bởi truyền thông công cộng và các nhà chính trị trong đại dịch COVID-19.[1]
Theo quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Phần này cần được mở rộng. Bạn có thể giúp bằng cách mở rộng nội dung của nó. |
Việt Nam
[sửa | sửa mã nguồn]Bài chi tiết: Đại dịch COVID-19 tại Việt Nam
Vào ngày 29 tháng 8, 2021, thủ tướng Phạm Minh Chính nhận định rằng Việt Nam có thể sẽ phải sống chung với virus và không thể dựa vào phong tỏa hay đóng cửa vô thời hạn. Điều này đánh dấu sự thay đổi lớn về cách tiếp cận của quốc gia này với COVID-19,[2][3][4] thúc ép Việt Nam đẩy nhanh chiến dịch tiêm chủng để kiểm soát đại dịch.[5]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Đại dịch COVID-19 theo quốc gia và vùng lãnh thổ
- Thông tin sai lệch về COVID-19
- Điều trị và kiểm soát COVID-19
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Stokoe E, Simons S, Drury J, Michie S, Parker M, Phoenix A, Reicher S, Wardlaw B, West R (tháng 3 năm 2022). “What can we learn from the language of "living with covid"?”. BMJ. 376: o575. doi:10.1136/bmj.o575. PMID 35241485. S2CID 247221989.
- ^ “TPHCM đề xuất chiến lược sống chung với vi-rút COVID-19, mở cửa trở lại từ ngày 15/9”. RFA. 3 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2021.
- ^ “Việt Nam chủ trương sống chung với dịch hay sống chung với vi-rút COVID-19?”. RFA. 1 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2021.
- ^ “Vietnam PM warns of long coronavirus fight as crisis deepens” (bằng tiếng Anh). Reuters. 2 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2021.
- ^ “HCM City, Hanoi accelerate testing, vaccinations against COVID-19” (bằng tiếng Anh). Vietnam Plus. 8 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2021.