Bước tới nội dung

Montipora

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Montipora
Phân loại khoa học
Danh pháp đồng nghĩa[1]
  • Manopora Dana, 1846

Montipora là một chi của san hô Scleractinia trong Cnidaria. Các thành viên của chi Montipora có thể biểu hiện nhiều hình thái tăng trưởng khác nhau. Với 88 loài đã biết[1], Montipora là chi san hô có chủng loài đa dạng thứ hai sau Acropora.[2]

Hình thái sinh trưởng của loài Montipora bao gồm kết thành lớp vỏ cứng, chia nhánh, submassive, laminar, foliaceous.[3][4] Thông thường, một cụm Montipora không tồn tại nhiều hơn một dạng hình thái.[4] Loài san hô Montipora khỏe mạnh có thể có nhiều màu sắc khác nhau, bao gồm cam, nâu, hồng, xanh lục, xanh dương, tím, vàng, xám hoặc nâu.[4] Mặc dù chúng thường có màu sắc đồng nhất, nhưng một số loài, ví dụ như Montipora spumosa hoặc Montipora verrucosa, có thể tồn tại dưới hình dạng đốm.[4]

San hô Montipora có đá san hô nhỏ nhất của bất kỳ loài san hô nào.[4] San hô này không có lõi.[4] Coenosteum và đá san hô có nhiều lỗ dẫn đến cấu trúc chắc chắn.[4] Coenosteum của mỗi loài Montipora là khác nhau, điều này hữu ích cho việc nhận dạng.[4] Polyp thường chỉ phát triển vào ban đêm.[4]

Các san hô Montipora thường bị nhầm lẫn với các cá thể của thể loại Porites dựa trên những điểm tương đồng về trực quan, tuy nhiên chúng có thể được phân biệt bằng cách kiểm tra cấu trúc của đá san hô.[4]

Phân bổ

[sửa | sửa mã nguồn]

San hô Montipora phổ biến ở các đá ngầm và hồ nước mặn ở gần biển của Biển Đỏ, Tây Ấn Độ Dương và Nam Thái Bình Dương, nhưng hoàn toàn không tồn tại ở Đại Tây Dương.[3]

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

San hô Montipora được biết đến như loài sinh sản lưỡng tính.[5] Việc sinh sản thường xảy ra vào mùa xuân.[5] Những ấu trùng san hô Montipora chứa zooxanthellae.[5][6] Quá trình này được gọi là trực tiếp hoặc phân chia theo chiều dọc.[2]

Các loài san hô Montipora là nơi trú ngụ, nơi ký sinh của các loài ký sinh trùng như Allopodion mirumXarifia extensa.

Loài san hô Montipora chịu các nguy cơ tương tự như các loài san hô Scleractin, chẳng hạn như ô nhiễm, trầm tích, sự tăng trưởng của tảo và các sinh vật cạnh tranh khác.[5]

Lịch sử tiến hóa

[sửa | sửa mã nguồn]

Một nghiên cứu năm 2007 cho thấy chi Montipora gần như không thể phân biệt gen từ chi Anacropora, biến nó thành giống có mối quan hệ di truyền gần nhất với Montipora.[7] Người ta cho rằng cách đây không lâu, Anacropora đã tiến hóa từ Montipora.[6]

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Chủng loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên WRMS
  2. ^ a b van Oppen, Madeleine J.H. (2004). “Mode of zooxanthella transmission does not affect zooxanthella diversity in acroporid corals”. Marine Biology. 144: 1–7. doi:10.1007/s00227-003-1187-4.
  3. ^ a b Van Oppen, M.J.H; Koolmees, E.M.; J.E.N, Veron (2004). “Patterns of evolution in the scleractinian coral genus Montipora (Acrroporidae)”. Marine Biology. 144: 9–18. doi:10.1007/s00227-003-1188-3.
  4. ^ a b c d e f g h i j Veron, J.E.N (1986). Corals of Australia and the Indo-Pacific. London: Angus & Robertson Publishers. tr. 92–121.
  5. ^ a b c d Richmond, Robert (1997). Reproduction and Recruitment in Corals. tr. 175–197.
  6. ^ a b Fukami, Hironobu; Omari, Makoto; Hatta, Masayuki (2000). “Phylogenetic relationships in the coral family Acroporidae, reassessed by inference from mitochondrial genes”. Zoological Science. 17: 689–696. doi:10.2108/zsj.17.689.
  7. ^ Wallace, C.C (2007). “Recognition of separate genera within Acropora based on new morphological, reproductive, and genetic evidence from Acropora togianensis, and elevation of the subgenus Isopora Studer, 1878 to genus (Scleractinia: Astrocoeniidae; Acroporidae)”. Coral Reefs. 26: 231–239. doi:10.1007/s00338-007-0203-4.