Bước tới nội dung

Cá chạch khoang

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Macrognathus circumcinctus)
Cá chạch khoang
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Synbranchiformes
Họ (familia)Mastacembelidae
Chi (genus)Macrognathus
Loài (species)M. circumcinctus
Danh pháp hai phần
Macrognathus circumcinctus
(Hora, 1924)
Danh pháp đồng nghĩa
Mastacembelus circumcinctus Hora, 1924[2]

Cá chạch khoang (Danh pháp khoa học: Macrognathus circumcinctus[2][3]) là một loài cá nước ngọt trong họ Cá chạch sông (Mastacembelidae)[3][4], thuộc về chi Macrognathus.

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Thân dài, hơi dẹp bên; đầu nhỏ, nhọn; mõm nhọn kéo dài, phía trước mõm có nếp da hoạt động được, chia thành 3 thùy, hai thùy bên có dạng ống là lỗ mũi trước; miệng dưới nhỏ, rãnh miệng ngắn; mắt nhỏ, nằm dưới da, hơi lệch về phía nửa trên của đầu; có 1 gai nhọn nằm ở trước và dưới mắt hướng về phía sau; có 2 gai nhọn ở gốc xương nắp mang, lỗ mang hẹp, lược mang rất ngắn và thưa. Vây lưng chia thành 2 phần: phần trước gốm các gai cứng rời nhau, gai cuối cùng dài và to nhất, màng da chỉ có ở gốc; phần sau là các tia mềm; vây lưng và vây hậu môn dính liền với vây đuôi; vây hậu môn có 3 gai, gai thứ 3 chìm sâu trong da.

Vây ngực tròn ngắn; không có vây bụng. Vẩy nhỏ, mịn, phủ khắp thân và đầu; đường bên liên tục; lưng và mặt bên màu nâu nhạt, bụng trắng; sọc 2 bên thân có 16-20 sọc ngang không đều, màu nâu thẫm ở phần trước thân chạy qua lưng, rộng nhưng kéo dài xuống đến bụng và ở phần sau thân không đều tại rìa vây hậu môn; trên lưng từ sau mắt đến phần tia mềm vây lưng các sọc bị đứt đoạn và có dạng hình đốm bao quanh bởi các viền trắng, từng cặp đối xứng qua đường giữa lưng; giữa các sọc đậm có các sọc nhạt hẹp hơn.

Phân bố

[sửa | sửa mã nguồn]

Loài cá này được biết đến từ lưu vực sông Mae KlongChao Phraya cho tới lưu vực hạ lưu sông Mê Kông, bán đảo Mã Lai, Indonesia (Sumatra) và Sarawak (lưu vực sông Rajang[5]).

Quốc gia bản địa: Campuchia, Indonesia (Sumatra), Lào, Malaysia (Malaysia bán đảo, Sarawak), Thái Lan, Việt Nam[1].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Vidthayanon, C. (2012). Macrognathus circumcinctus. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2012.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập 12 tháng 7 năm 2016. Mục của cơ sở dữ liệu có kèm lý giải tại sao loài này là ít quan tâm.
  2. ^ a b Kottelat, M. (2001) Fishes of Laos., WHT Publications Ltd., Colombo 5, Sri Lanka. 198 p.
  3. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Macrognathus circumcinctus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2015.
  4. ^ Bisby |first = F.A. |last2 = Roskov |first2 = Y.R. |last3 = Orrell |first3 = T.M. |last4 = Nicolson |first4 = D. |last5 = Paglinawan |first5 = L.E. |last6 = Bailly |first6 = N. |last7 = Kirk |first7 = P.M. |last8 = Bourgoin |first8 = T. |last9 = Baillargeon |first9= G. |last10 = Ouvrard |first10 = D. (2011). Species 2000 & ITIS Catalogue of Life: 2011 Annual Checklist.. Species 2000: Reading, UK.. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2012.
  5. ^ Parenti L.R. & K.K.P. Lim, 2005. Fishes of the Rajang basin, Sarawak, Malaysia. Raffles Bull. Zool. Supplement (13):175-208.