Luís Fabiano
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Luís Fabiano Clemente Palomino | ||
Chiều cao | 1,85 m (6 ft 1 in)[1] | ||
Vị trí | Tiền đạo cắm | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
Ponte Preta | |||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1998–2000 | Ponte Preta | 12 | (3) |
2000–2002 | Rennes | 11 | (0) |
2001 | → São Paulo (mượn) | 22 | (9) |
2002–2004 | São Paulo | 65 | (52) |
2004–2005 | F.C. Porto | 22 | (3) |
2005–2011 | Sevilla | 149 | (72) |
2011–2015 | Thiên Tân Quyền Kiện | 28 | (22) |
2017 | Vasco da Gama | 20 | (6) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2003–2013 | Brasil | 45 | (28) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Luís Fabiano Clemente (sinh ngày 8 tháng 11 năm 1980), thường được gọi Luís Fabiano, là một cựu cầu thủ bóng đá người Brasil. Anh từng là tiền đạo chính của câu lạc bộ Sevilla và đội tuyển Brasil. Fabiano có kĩ thuật cá nhân đúng chất Brasil, nhưng lại nổi tiếng với sức mạnh và hiệu quả như cầu thủ châu Âu.
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Khởi nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi có mùa giải thất vọng ở CLB Rennes (Pháp), anh đã thành danh dưới màu áo CLB São Paulo (Brazil) với màn trình diễn ấn tượng. Khả năng xử lý nhanh, hiệu quả và dứt điểm lạnh lùng của anh đã giúp São Paulo vào đến Bán Kết Copa Libertadores 2004. Tuy vậy, Fabiano cũng nổi tiếng "lắm tài nhiều tật" khi được gắn biệt danh Bad Boy. Trong trận đấu ở Copa Sudamericana 2003 giữa São Paulo và River Plate F.C., đã có va chạm xảy ra trên sân. Nhân lúc đó, Fabiano đã vòng ra sau lưng một cầu thủ đối phương đá vào "chỗ hiểm" anh ta. Khi được "hộ tống" ra khỏi sân, Fabiano đã nói: Hắn ta nên chiến đấu như đàn ông hơn là kiếm quả penalty[2]
FC Porto
[sửa | sửa mã nguồn]Anh được chuyển đến F.C. Porto với giá 10 triệu US$ năm 2004. Ở đây, Fabiano tái ngộ với Diego, đồng đội trong tuyển Brazil thi đấu ở Copa América 2004. Tuy nhiên, anh lại trình diễn tệ hại khi chỉ ghi được 3 bàn trong 22 trận được ra sân. Điều này khiến anh được chuyển tới Sevilla F.C. ở giải La Liga.
Sevilla
[sửa | sửa mã nguồn]10 tháng 5 năm 2006, anh ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng 4-0 trước Middlesbrough F.C. tại chung kết UEFA Cup (tên cũ của Europa League). Fabiano càng thi đấu càng trưởng thành, và thành công đã đến với anh ở mùa giải La Liga 2007-2008 khi đoạt danh hiệu Á quân Vua Phá Lưới La Liga Cúp Pichichi với 24 bàn thắng (xếp sau Daniel Güiza - 27 bàn). Điều đó đã giúp anh được gọi lại vào Seleção với suất tiền đạo chính.
4 tháng 7 năm 2009, CLB AC Milan đã liên hệ với Sevilla F.C. nhằm đưa tiền đạo Brasil này về sân San Siro, nhưng thương vụ này không thành. Cũng trong năm đó, Anh đã gia hạn hợp đồng với Sevilla F.C. tới năm 2011.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Website chính thức (tiếng Bồ Đào Nha)
- Luís Fabiano tại National-Football-Teams.com
- Luís Fabiano tại Soccerway
- Luís Fabiano Clemente – Thành tích thi đấu FIFA
- Luís Fabiano – Thành tích thi đấu tại UEFA
- Luís Fabiano tại Sambafoot
- Q&A with Brazil’s Luís Fabiano tại Wayback Machine (lưu trữ 2010-06-08)
- Luis Fabiano trên Biogs.com
- Cầu thủ bóng đá nam Brasil
- Cầu thủ bóng đá nam Brasil ở nước ngoài
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil
- Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2003
- Tiền đạo bóng đá nam
- Cầu thủ bóng đá São Paulo FC
- Cầu thủ bóng đá FC Porto
- Cầu thủ bóng đá Sevilla FC
- Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série A
- Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
- Sinh năm 1980
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Trung Quốc
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bồ Đào Nha
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2010