Khabul Khan
Khabul Khan | |
---|---|
Khả hãn Mông Cổ | |
Khả hãn Mông Ngột Quốc | |
Tại vị | 1130 - 1146? |
Tiền nhiệm | Lập quốc |
Kế nhiệm | Ambaghai |
Thông tin chung | |
Hậu duệ | Okhinbarkhag Bartan Baghatur Khutugtu Monkhor Hotula Khan Khulan Khadaan Baghatur Todoi |
Thân phụ | Tumbinai Setsen |
Cáp Bất Lặc Hãn (tiếng Mông Cổ: ᠺᠠᠪᠦᠯ, Chuyển tự Latinh: Qabul, chữ Mông Cổ: Хабул;chữ Hán: 葛不律, Cáp Bất Lặc), hay Khabul Khan, Qabul Khan, Kabul Khan[1] và Khabul Khagan, là Khả hãn đầu tiên được biết đến của Mông Ngột Quốc và là cụ nội của Thành Cát Tư Hãn.[2]
Thân thế
[sửa | sửa mã nguồn]Khabul Khan là con trai của Tumbinai Khan và là chắt của Khaidu. Ông là người đứng đầu gia tộc Bột Nhi Chỉ Cân.[3]
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Khabal Khan đã đi vào lịch sử do cuộc đụng độ của ông với tộc Nữ Chân, một dân tộc sống ở phía bắc nhà Liêu ở Mãn Châu, thành lập nhà Kim vào năm 1115, và dần dần nắm quyền kiểm soát Mãn Châu. Liên minh với triều đại nhà Tống, họ đã tấn công nhà Liêu và đến năm 1122 đã chiếm được một phần đáng kể lãnh thổ nhà Liêu.[4] Quân đội nhà Kim truy đuổi ông vào miền nam Mông Cổ, nhưng Khabul đã trốn tránh và bắt trở lại với một đội quân lớn hơn để cướp phá vương triều Kim.[5]
Khi quân đội Kim sau đó tiến vào Mông Cổ với ý định chinh phục các vùng lãnh thổ do Da Luật Đại Thạch cai trị (hay Liêu Tuyên Tông), và là người sáng lập ra triều đại Tây Liêu hay Qara Khitai, chính Khabul Khan đã kết hợp với người Mông Cổ liên minh và lãnh đạo nỗ lực thành công để đẩy lùi cuộc xâm lược này.[3]
Liên minh được gọi là Mông Ngột Quốc (hay "Toàn bộ Mông Cổ") và bao gồm bốn gia tộc cốt lõi: Khiyad, Recruituud, Jalairs và Jirukhen. Liên minh này đôi khi được coi là một quốc gia tiền thân của Đế chế Mông Cổ.[6] Khi người Nữ Chân chấp nhận thất bại của họ, họ đã công nhận Khabul Khan, vào năm 1146 hoặc 1147, là người cai trị tối cao của người Mông Cổ, mặc dù họ vẫn chính thức coi ông là chư hầu của họ.
Khabul Khan đã được mô tả là có người đã mở rộng bộ lạc Mông Cổ của mình và đạt được chiến thắng đáng kinh ngạc trong việc đàn áp các bộ lạc Tatar, một thành tựu mà ông được con trai Yasukai giúp đỡ.[7] Các hoạt động của ông trong triều đại của ông đã đánh dấu những nỗ lực đầu tiên nhằm thống nhất về mặt chính trị của người Mông Cổ.[8]
Mặc dù Khabul Khan có bảy người con trai, ông đã đề cử Ambaghai, con trai của Sengun Bilge từ gia tộc Recruituud, làm người kế vị.[5][6]
Hậu duệ
[sửa | sửa mã nguồn]Khabul Khan có bảy người con trai, con trưởng là Okin-barkhakh và con thứ hai là Bartan Dũng cảm. Bartan sinh ra Dã Tốc Cai (Yesugei), cha của Thành Cát Tư Hãn. Con trai thứ ba của Khabul Khan là Mongler, cha của đô vật Buri.[9]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Man, John. (2013). Genghis khan : life, death, and resurrection. New York: St. Martin's Press. ISBN 9781466861565. OCLC 872644244.
- ^ Mongolia :: The rise of Genghis Khan – Britannica Online Encyclopedia
- ^ a b Beckwith, Christopher (16 tháng 3 năm 2009). Empires of the Silk Road. Princeton University. ISBN 978-1400829941.
- ^ Biran, Michal (2005). The Empire of the Qara Khitai in Eurasian History: Between China and the Islamic World. Cambridge University.
- ^ a b Erich Haenisch, Die Geheime Geschichte der Mongolen, Leipzig 1948, p.7 (=section 52)
- ^ a b Bold, Bat-Ochir (2001). Mongolian nomadic society: a reconstruction of the "medieval" history of Mongolia. Routledge. ISBN 0700711589.
- ^ Udhoke, Sukhpreet (19 tháng 6 năm 2017). “Law of Yaasa under which Guru Arjan Sahib was martyred”. LinkedIn.
- ^ Vidakovic, Nenad (30 tháng 4 năm 2015). “Early Mongols – the Ethno-Political History to the 13th Century”. Migration and Ethnic Themes. 31 (1): 65–114. doi:10.11567/met.31.1.3 – qua Hrčak.
- ^ Waley, Arthur (12 tháng 1 năm 2008). The Secret History of the Mongols and Other Pieces. House of Stratus. ISBN 9780755116041.