Bước tới nội dung

HMS Bentley (K465)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi DE-74
Đặt hàng 1942
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 26 tháng 4, 1943
Hạ thủy 17 tháng 7, 1943
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc, 10 tháng 7, 1943
Đổi tên Ebert, 27 tháng 5, 1943
Xóa đăng bạ 15 tháng 12, 1945
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, 5 tháng 11, 1945
Số phận Bán để tháo dỡ, 17 tháng 6, 1947
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Bentley (K465)
Đặt tên theo John Bentley
Nhập biên chế 13 tháng 10, 1943
Số phận Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 5 tháng 11, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

HMS Bentley (K465) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc USS Ebert (DE-74), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Phó đô đốc Sir John Bentley (?-1772), hạm trưởng chiếc tàu chiến tuyến HMS Warspite (1758) và đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Bảy Năm.[1][2][3] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[4][5]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[6] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [4][5] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[6]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[6]

Con tàu được đặt lườn như là chiếc DE-74 tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 26 tháng 4, 1943,[8] được đặt tên Ebert vào ngày 27 tháng 5, 1943[2] và được hạ thủy vào ngày 17 tháng 7, 1943.[9][10] Tuy nhiên trước đó nó đã được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 10 tháng 7, 1943,[2][11][Note 1] và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Bentley (K465) vào ngày 13 tháng 10, 1943[8] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Paul Cortis Hopkins.[9][10]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Bentley đã hoạt động thuần túy cùng Đội hộ tống 1 trong suốt cuộc chiến tranh khi tham gia hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương.[2]

Vào ngày 19 tháng 2, 1944, Bentley cùng với tàu frigate chị em Affleck đã cứu vớt 54 người sống sót từ chiếc tàu buôn Panama Colin, vốn bị đắm do trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức U-859 vào ngày hôm trước tại tọa độ 54°16′B 31°58′T / 54,267°B 31,967°T / 54.267; -31.967.[10]

Đến tháng 6, Bentley cùng Đội hộ tống 1 tham gia vào cuộc đổ bộ Normandy, là một trong số sáu đội hộ tống hình thành nên màn chắn khoảng 130 mi (210 km) về phía Tây Lands End, nhằm ngăn chặn tàu ngầm U-boat Đức xâm nhập từ các căn cứ trên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp can thiệp vào cuộc đổ bộ.[12][13]

Trong tháng 12, Bentley cùng Đội hộ tống 1 đặt căn cứ tại Belfast, Bắc Ireland để hoạt động tại khu vực Tây eo biển Manche.[14] Sang tháng 3-tháng 4, 1945, chuyển đến Căn cứ Portsmouth để đối phó với tàu ngầm U-boat đối phương hoạt động tại eo biển Manche.[15]

Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, Bentley quay trở về Hoa Kỳ và được chính thức hoàn trả cho Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 11, 1945,[16] nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 12, 1945, rồi sau đó được bán cho hãng John J. Witte tại Staten Island, New York vào ngày 17 tháng 7, 1947 để tháo dỡ.[2]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Cái tên USS Ebert sau đó được đặt lại cho chiếc USS Ebert (DE-768), một tàu hộ tống khu trục lớp Cannon

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Manning & Walker 1959, tr. 104.
  2. ^ a b c d e Naval Historical Center. Bentley. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  3. ^ Tynan, Roy (2003). “HMS Bentley K465 (DE 74)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  5. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  6. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  7. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  8. ^ a b Whitley 2000, tr. 150.
  9. ^ a b Yarnall, Paul R (ngày 9 tháng 4 năm 2017). “Ebert (DE 74)/HMS Bentley (K465)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  10. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “HMS Bentley (K 465)”. uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  11. ^ Cressman, Robert J. (ngày 8 tháng 2 năm 2006). Ebert (DE-768). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  12. ^ Rohwer & Hümmelchen 1992, tr. 283.
  13. ^ Blair 2000, tr. 576.
  14. ^ Rohwer & Hümmelchen 1992, tr. 321.
  15. ^ Rohwer & Hümmelchen 1992, tr. 339.
  16. ^ Whitley 2000, tr. 150, 152.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]