Bước tới nội dung

Boy in da Corner

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Boy in da Corner
Album phòng thu của Dizzee Rascal
Phát hành21 tháng 7 năm 2003 (2003-07-21)
Thu âmTháng 10 năm 2001–Tháng 3 năm 2003
Phòng thuBelly of the Beast, Raskits Lair (Luân Đôn, Anh)
Thể loạiGrime
Thời lượng57:08
Hãng đĩaXL
Sản xuất
Thứ tự album của Dizzee Rascal
Sidewinder Live
(2002)
Boy in da Corner
(2003)
Showtime
(2004)
Đĩa đơn từ Boy in da Corner
  1. "I Luv U"
    Phát hành: 26 tháng 5 năm 2003
  2. "Fix Up, Look Sharp"
    Phát hành: 18 tháng 8 năm 2003
  3. "Jus' a Rascal"
    Phát hành: 24 tháng 11 năm 2003

Boy in da Corner là album phòng thu đầu tay của rapper kiêm nhà sản xuất người Anh Dizzee Rascal. Album được XL Recordings phát hành lần đầu vào ngày 21 tháng 7 năm 2003 tại Anh Quốc trước khi được phát hành vào năm sau tại Hoa Kỳ.

Nhờ thành công vang dội trước giới phê bình, Boy in da Corner trở thành một trong những đĩa nhạc được tán dương nhất năm 2003 và tiếp tục giành được giải Mercury cho album hay nhất từ Liên hiệp Anh và Ireland. Nhạc phẩm còn đạt vị trí thứ 23 (hạng cao nhất) trên UK Albums Chart và tiêu thụ hơn 250.000 bản trên toàn thế giới vào năm 2004. Nhờ thành công của album, Dizzee Rascal không chỉ gây được chú ý lớn của đại chúng tới thể loại nhạc grime, mà còn trở thành ngôi sao nhạc rap đầu tiên của Anh được quốc tế công nhận.

Hoàn cảnh ra đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Khoảng năm 14 tuổi, Dizzee Rascal trở thành một DJ drum and bass nghiệp dư, đồng thời đọc rap qua các bài nhạc như một thông lệ trong văn hóa hệ thống âm thanh và thỉnh thoảng xuất hiện trên các đài phát thanh lậu địa phương.[1] Hai năm sau, ở tuổi 16, anh tự sản xuất đĩa đơn đầu tiên của mình mang tên "I Luv U", sau được đưa vào đĩa nhạc đầu tay của anh.[2] Cùng năm ấy, Rascal ký hợp đồng solo với hãng thu âm XL.[3]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic92/100[14]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[4]
Blender[5]
Entertainment WeeklyB [6]
The Guardian[7]
Mojo[8]
NME9/10[9]
Pitchfork9,4/10[10]
Rolling Stone[11]
SpinA−[12]
The Village VoiceA−[13]

Boy in da Corner đã nhận được đông đảo lời tán dương từ giới phê bình. Tại Metacritic, album nhận được số điểm 92 trên 100, dựa trên 28 bài đánh giá.[14] NME gọi đây là "một trong những album đầu tay đáng tin cậy nhất trong 5 năm qua".[9] Entertainment Weekly nhận xét: "Kết hợp các nhịp của UK garage và tính nhạy cảm đặc thù của người Anh, Rascal bắn ra những cụm từ bằng năng lượng và khéo léo của một võ sĩ quyền anh vô địch".[6] Rolling Stone viết: "Nếu bạn muốn có tầm nhìn về tương lai của hip-hop và techno, hãy lấy đĩa nhạc này".[11] AllMusic gọi nhạc phẩm là "Gây sửng sốt, mạnh mẽ mà không gây mệt mỏi và đầy kích thước vô hạn, không gì có thể thực sự kìm hãm tác phẩm đầu tay này".[4] Scott Plagenhoef của Pitchfork nhận định: "Tiếng rên rỉ tuyệt vọng, nỗi oán giận dồn nén và những âm thanh gay gắt của Dizzee đưa anh lên tuyến đầu trong trận chiến chống lại một nước Anh sa sút, giống như Pete Townshend, Johnny RottenMorrissey trong quá khứ".[10] Trên báo The Village Voice, Robert Christgau đã viết: "Những tiếng nuốt và tru kêu ở tuổi thiếu niên của anh đúng kiểu đường phố của Anh với tính lưu động của người Jamaica, gọn lẹ, lập dị và hấp dẫn như các beat."[13] Nhà phê bình Jeff Chang của Fellow Village Voice bình luận "Khi Dizzee suy nghĩ rất sâu sắc—lo lắng về việc lớn lên, về những người xung quanh không chịu lớn, về việc chết trước khi lớn—anh ấy có vẻ như nói thật (bất kể chúng ta có thể gọi nó là gì đi nữa)”.[15] Tạp chí Stylus Magazine đánh giá: "Hầu hết những khoảnh khắc hấp dẫn nhất của Boy in Da Corner đều đến từ tương tác khó khăn giữa thanh niên phi lý và xã hội cơ giới hóa cực kỳ hợp lý".[16] Alexis Petridis từ The Guardian thì mệnh danh Dizzee là "nghệ sĩ độc đáo và thú vị nhất nổi lên từ nhạc dance trong một thập kỷ".[7]

Theo trang Acclaimed Music, Boy in da Corner là đĩa nhạc được xếp hạng cao thứ ba trong danh sách album hay nhất cuối năm của các nhà phê bình và chung cuộc đứng thứ 369 trong danh sách album hay mọi thời đại sau đấy.[17] Nhạc phẩm đem về cho Dizzee Rascal giải Mercury năm 2003, giải thưởng âm nhạc hàng năm dành cho album hay nhất của Liên hiệp Anh và Ireland, giúp anh trở thành rapper thứ hai giành được giải thưởng này.[18] Năm 2009, nhạc phẩm được bình chọn là album hay thứ 6 mọi thời đại bởi MTV Base.[19] Album có tên trong cuốn sách 1001 Albums You Must Hear Before You Die.[20] Theo BJ Steiner từ Complex, " Boy in Da Corner đã đưa nhạc grime—một tiểu thể loại hip-hop giàu ảnh hưởng được sinh ra từ sự sáng tạo vô tận của một nhóm thiếu nhi từ Liên hiệp Anh—đến phần còn lại của thế giới và tạo dựng nên một Dizzee Rascal trẻ tuổi, siêu sao nhạc rap quốc tế đầu tiên từ đất nước của anh."[21]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Boy in da Corner lần lượt được XL Recordings phát hành vào ngày 21 tháng 7 năm 2003 tại Vương quốc Anh và Matador Records vào ngày 20 tháng 1 năm 2004 tại Hoa Kỳ.[22] Album giành vị trí số 23 trên UK Albums Chart[23] và đoạt được chứng nhận vàng của British Phonographic Industry (BPI) nhờ xuất xưởng 100.000 bản tại đó.[24] Tính đến năm 2004, nhạc phẩm tiêu thụ được hơn 250.000 bản trên toàn thế giới,[25] và hơn 58.000 bản ở Mỹ vào năm 2007.[26] Album đã giành được chứng nhận Bạch kim (300.000 bản) vào tháng 7 năm 2018, tức 15 năm sau khi phát hành, trở thành album Bạch kim bán chạy thứ hai của Dizzee sau Tongue n' Cheek.[27]

Năm 2009, Boy in da Corner đã được NME bình chọn là album nhạc indie hay nhất mọi thời đại.[28] Năm 2016, Dizzee Rascal biểu diễn toàn bộ album Boy in da Corner lần đầu tiên ở New York và sau đó là ở Đông Luân Đôn tại Copper Box Arena.[29][30] Các nhà phê bình đương thời khen ngợi ảnh hưởng liên tục của album đối với nhạc grime và thứ âm thanh trường tồn.[31][32] Cuối năm 2016, một đĩa mixtape lậu dành cho người hâm mộ, gồm những bản thu âm hiếm hoi từ thời Boy in Da Corner có tên Left in da Corner đã được phát hành.[33]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]

Mọi bài hát đều do Dizzee Rascal sản xuất, trừ những chỗ được ghi chú.

STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."Sittin' Here"Dylan Mills4:05
2."Stop Dat"Mills3:40
3."I Luv U"Mills4:05
4."Brand New Day"Mills4:00
5."2 Far" (hợp tác Wiley)3:07
6."Fix Up, Look Sharp"
3:44
7."Cut 'Em Off"Mills3:53
8."Hold Ya Mouf" (featuring God's Gift)
  • Mills
  • Jerome Dow
2:55
9."Round We Go" (co-produced by Chubby Dread)
  • Mills
  • Hector
4:13
10."Jus' a Rascal" (hợp tác với Taz) (do Taz & Vanguard đồng sản xuất))
  • Mills
  • Tesmond Rowe
  • Vanguard Vardoen
3:39
11."Wot U On?"Mills4:50
12."Jezebel"Mills3:36
13."Seems 2 Be"Mills3:46
14."Live O"Mills3:35
15."Do It!"Mills4:06
Tổng thời lượng:57:08
Bài tặng kèm bản Mỹ
STTNhan đềSáng tácThời lượng
16."Vexed"Mills4:11

Ghi chú

  • "Stop Dat" có giọng bè của Armor of NASTY Crew
  • "I Luv U" có thêm giọng hát bổ sung của Jeanine Jacques
  • "Wot U On?" có thêm giọng hát bổ sung của Caramel
  • "Seems 2 Be" có thêm giọng hát bổ sung của Claire Cottrell

Ghi công nhạc mẫu

Nhân sự

[sửa | sửa mã nguồn]

Phần ghi công của album được lấy từ AllMusic.[34]

  • Armour – hát bè
  • Gareth Bayliss – trợ lý thiết kế bao bìa
  • Caramel – hát
  • Dean Chalkley – ảnh bao bìa
  • Chubby Dread – nhà sản xuất
  • Claire Cottrell – hát
  • Nick Detnon – A&R
  • Ben Drury – thiết kế bìa, thiết kế logo
  • God's Gift – trình diễn
  • Nick Huggett – phối hợp nghệ sĩ
  • Dylan Mills – nhà soạn nhạc
  • Tesmond Rowe – nhà soạn nhạc
  • Vanguard Vardoen – nhà soạn nhạc
  • Wiley – trình diễn

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ DJ Vlad (ngày 17 tháng 3 năm 2016). “Dizzee Rascal on Growing up in the Projects & Raw Gun Culture in the U.K.”. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  2. ^ “Dizzee Rascal: You Ask The Questions”. The Independent. London. ngày 12 tháng 8 năm 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2009.
  3. ^ “Garage star stabbed in Cyprus”. BBC News. ngày 8 tháng 7 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2009.
  4. ^ a b Kellman, Andy. Boy in da Corner – Dizzee Rascal”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  5. ^ Weiner, Jonah (tháng 1 năm 2004). “Dizzee Rascal: Boy in da Corner. Blender (23): 108. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
  6. ^ a b Browne, David (ngày 16 tháng 1 năm 2004). Boy in da Corner. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  7. ^ a b Petridis, Alexis (ngày 18 tháng 7 năm 2003). “Dizzee Rascal: Boy in da Corner. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  8. ^ “Dizzee Rascal: Boy in da Corner”. Mojo (117): 106. tháng 8 năm 2003.
  9. ^ a b Pattison, Louis (ngày 21 tháng 7 năm 2003). “Dizzee Rascal: Boy in Da Corner. NME. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  10. ^ a b Plagenhoef, Scott (ngày 6 tháng 7 năm 2003). “Dizzee Rascal: Boy in Da Corner. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2012.
  11. ^ a b Blashill, Pat (ngày 5 tháng 2 năm 2004). “Dizzee Rascal: Boy in Da Corner. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2008.
  12. ^ Hermes, Will (tháng 2 năm 2004). “Speaking in Tongues”. Spin. 20 (2): 95–96. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  13. ^ a b Christgau, Robert (ngày 10 tháng 2 năm 2004). “Consumer Guide: Parts of the Elephunk”. The Village Voice. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  14. ^ a b “Reviews for Boy in Da Corner by Dizzee Rascal”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  15. ^ Chang, Jeff (ngày 13 tháng 1 năm 2004). “Future Shock”. The Village Voice. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  16. ^ Mueller, Gavin (ngày 1 tháng 9 năm 2003). “Dizzee Rascal – Boy in Da Corner – Review”. Stylus Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  17. ^ “Dizzee Rascal”. Acclaimed Music. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2016.
  18. ^ “Rapper Rascal wins Mercury Prize”. BBC News. ngày 9 tháng 9 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  19. ^ “MTV Base – Greatest Albums Ever”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  20. ^ Dimery, Robert biên tập (2010). 1001 Albums You Must Hear Before You Die: Revised and Updated Edition. Universe. ISBN 978-0-789-32074-2.
  21. ^ Steiner, B.J. (ngày 6 tháng 5 năm 2016). “The Boy in Da Corner Grown Up: An Interview With Dizzee Rascal”. Complex. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2016.
  22. ^ Morris, David (ngày 24 tháng 10 năm 2003). “Dizzee Rascal: The End of Garage's Beginning”. PopMatters. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  23. ^ Thompson, Ben (ngày 20 tháng 6 năm 2004). “Dizzee Rascal, Boy in Da Corner. The Observer. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  24. ^ “BPI > Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2010.
  25. ^ Weiner, Jonah (ngày 7 tháng 9 năm 2004). “Parallel Universe”. The Village Voice. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  26. ^ Martens, Todd (ngày 23 tháng 5 năm 2007). “New Dizzee Rascal Goes Digital-Only in U.S.”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  27. ^ “Dizzee Rascal on Instagram: "Imagine I'm just now seeing Boy in the corner went platinum last year 15 years after it was released! Big up everyone who's still listening…". Instagram. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  28. ^ “The greatest indie albums of all time”. NME. ngày 29 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2023.
  29. ^ “The Secret History of Boy in Da Corner”. ngày 6 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  30. ^ Halls, Eleanor. “Dizzee Rascal reminisces making his Mercury Prize winning debut album Boy in Da Corner”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  31. ^ Yates, Kieran (ngày 7 tháng 5 năm 2016). “Dizzee Rascal: UK grime's royalty reclaims throne in New York”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  32. ^ “Exclusive: The Grime Scene Talks Dizzee Rascal's 'Boy in Da Corner' In New Mini Doc”. Complex UK. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  33. ^ Fourth Mason (ngày 22 tháng 12 năm 2016). “Dizzee Rascal - Left in Da Corner (Mixtape)”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017 – qua YouTube.
  34. ^ “Boy in da Corner - Dizzee Rascal: Credits”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2011.
  35. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  36. ^ "Dizzee Rascal Chart History (Heatseekers Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  37. ^ "Dizzee Rascal Chart History (Independent Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  38. ^ “The Official UK Albums Chart 2003” (PDF). UKChartsPlus. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]