Bước tới nội dung

Ali Karimi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ali Karimi
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Mohammad-Ali Karimi Pashaki
Ngày sinh 8 tháng 11, 1978 (46 tuổi)
Nơi sinh Karaj, Iran
Chiều cao 1,79 m (5 ft 10 12 in)[1]
Vị trí Tiền vệ tấn công / Tiền đạo lùi
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1990–1991 Naft Tehran[2][3]
1991–1994 Saipa[4]
1994–1996 Fath Tehran
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1996–1998 Fath Tehran
1998–2001 Persepolis 43 (11)
2001–2005 Al-Ahli 69 (45)
2005–2007 Bayern Munich 33 (3)
2007–2008 Qatar SC 27 (5)
2008–2009 Al-Sailiya 0 (0)
2008–2009Persepolis (mượn) 21 (5)
2009–2011 Steel Azin 40 (14)
2011 Schalke 04 1 (0)
2011–2013 Persepolis 40 (13)
2013–2014 Tractor Sazi 26 (5)
Tổng cộng 300 (101)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1998 U-23 Iran 9 (1)
1998–2012 Iran 127 (38)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
2014 Iran (trợ lý)[5]
2017 Naft Tehran
2018 Sepidrood
2018–2019 Sepidrood
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Iran
Bóng đá nam
Asian Cup
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Trung Quốc 2004
Asiad
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất Bangkok 1998 Đồng đội
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Mohammad Ali Karimi Pashaki (phát âm tiếng Farsi: /ɑli kʲæriˈmi/, sinh ngày 8 tháng 11 năm 1978) là một cựu cầu thủ bóng đá của đội tuyển quốc gia Iran đã giã từ sự nghiệp thi đấu bóng đá. Anh đã từng chơi cho nhiều câu lạc bộ trong và ngoài nước như Fath Tehran, Persepolis, Al-Ahli Dubai, Bayern Munich, Qatar SC, Steel Azin, Schalke 04, Tractor Sazi. Trong thời gian khoác áo đội tuyển quốc gia Iran, anh đã ghi được 38 bàn thắng trong 127 lần ra sân. Năm 2004, Ali Karimi trở thành cầu thủ thứ tư của Iran giành danh hiệu Cầu thủ châu Á của năm. Anh tuyên bố giải nghệ vào cuối mùa giải 2013-14 khi đang khoác áo cho câu lạc bộ Tractor Sazi của Iran, và vào ngày 11 tháng 4 năm 2014, anh đã chơi trận đấu cuối cùng trong sự nghiệp 18 năm thi đấu của mình.[6]

Sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của Karimi bắt đầu với câu lạc bộ Fath Tehran, nơi anh đã có lần đầu tiên ra mắt đội bóng vào năm 1996 ở tuổi 18, sau đó đã chơi ba mùa bóng tại câu lạc bộ khác trong nước là Persepolis, giúp câu lạc bộ hai lần vô địch tại Giải bóng đá Iran trong mùa giải 1998-99, 2000-01 và một lần đăng quang Hazfi Cup. Vào tháng 7 năm 2001, Karimi đã ký hợp đồng có thời hạn hai năm với câu lạc bộ đang thi đấu tại giải UAE Pro League là Al-Ahli Dubai.[7] Trong thời gian thi đấu tại Al-Ahli, Karimi đã giành hai danh hiệu vô địch cùng đội bóng, và là tay săn bàn hàng đầu trong mùa giải 2003-04, một thành tích ấn tượng đối với một tiền vệ. Sau khi rời câu lạc bộ vào năm 2005 khi đang ở độ tuổi 26, Karimi đã bất ngờ ký hợp đồng khi tới châu Âu thi đấu cho câu lạc bộ Bayern Munich. Tại câu lạc bộ, anh thi đấu tương đối thành công khi giành danh hiệu vô địch BundesligaCúp quốc gia ở mùa giải 2005-06. Sau đó, anh lại tái ngộ với huấn luyện viên Felix Magath và giành tiếp một cúp quốc gia Đức nữa với Schalke 04. Karimi đã kết thúc sự nghiệp khi trở về Iran thi đấu tại câu lạc bộ Persepolis và Tractor Sazi, và anh cũng đã giành thêm được chức vô địch Hazfi Cup tại mùa giải cuối cùng trong sự nghiệp của mình, mùa giải 2013-14.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự nghiệp thi đấu quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Thống kê

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng và danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Persepolis
Bayern Munich
Al-Ahli
Schalke 04
Tractor Sazi

Quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Vòng chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 2006 tại Đức”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2012.
  2. ^ 15 tháng 9 năm 1389/FILE634273386575065000.pdf “Tamashagar Vol. 23 pp 46–47” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) (PDF). hamshahrimags.com.
  3. ^ “يک بازي بزرگ حداقل شايستگي سربازان فوتبال ايران” (bằng tiếng Ba Tư). Mardomsalari Newspaper. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2012.
  4. ^ “Ali Karimi's official website”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2014.
  5. ^ “Karimi to Assist Queiroz”. Financial Tribune. ngày 27 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2018.
  6. ^ “Esteghlal TEH 1 - 3 Teraktor TBZ”. iplstats.com. ngày 11 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2014.
  7. ^ “Karimi is Iran dangerman”. BBC. London. ngày 5 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2014.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]