A Quế
A Quế | |
---|---|
Võ Anh điện Đại học sĩ A Quế | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 1773 – 1783 |
Tiền nhiệm | Lưu Thống Huân |
Kế nhiệm | Hòa Thân |
Nhiệm kỳ | Tháng 11 năm 1766 (thay quyền) Tháng 4 năm 1767 (nhậm chức) – 5 tháng 6, 1768 |
Tiền nhiệm | Minh Thụy |
Kế nhiệm | Y Lặc Đồ |
Vị trí | Y Lê |
Nhiệm kỳ | 5 tháng 6, 1768 – 8 tháng 8, 1768 |
Tiền nhiệm | Phúc Long An |
Kế nhiệm | Thác Dong |
Nhiệm kỳ | 4 tháng 1, 1770 – 23 tháng 9, 1770 |
Tiền nhiệm | Vĩnh Quý |
Kế nhiệm | Vĩnh Quý |
Nhiệm kỳ | 19 tháng 2, 1773 – 24 tháng 8, 1773 |
Tiền nhiệm | Vĩnh Quý |
Kế nhiệm | Vĩnh Quý |
Nhiệm kỳ | 24 tháng 8, 1773 – 6 tháng 3, 1776 |
Tiền nhiệm | Thư Hách Đức |
Kế nhiệm | Phong Thăng Ngạch |
Nhiệm kỳ | 6 tháng 3, 1776 – 27 tháng 6, 1777 |
Tiền nhiệm | Quan Bảo |
Kế nhiệm | Vĩnh Quý |
Thông tin cá nhân | |
Danh hiệu | Nhất đẳng Thành Mưu Anh Dũng công |
Sinh | Bắc Kinh, Đại Thanh | 17 tháng 9, 1717
Mất | 10 tháng 10, 1797 Bắc Kinh, Đại Thanh | (80 tuổi)
Nghề nghiệp | Chính trị gia, Tướng lĩnh |
Dân tộc | Người Mãn |
Cha | A Khắc Đôn |
A Quế (tiếng Mãn: ᠠᡤᡡᡳ, chuyển tả: agūi, tiếng Trung: 阿桂; bính âm: Āguì, 7 tháng 9 năm 1717 - 10 tháng 10 năm 1797), tên tự Quảng Đình (廣廷),[1][2] Vân Nham (云岩),[3] hiệu Vân Nhai (云崖),[4] thất danh[Chú 1] Đức Ấm đường (德荫堂),[1] ông là tướng lĩnh nhà Thanh dưới thời Càn Long.[5] Ông xuất thân trong gia tộc Chương Giai thị, vốn thuộc Mãn Châu Chính Lam kỳ,[6] sau nhờ có công bình định Hồi bộ đổi thành Chính Bạch kỳ.[7]
Thân Thế
[sửa | sửa mã nguồn]A Quế sinh vào ngày 3 tháng 8 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 56 (1717) tại Thuận Thiên phủ của Bắc Kinh. Cha ông là Đại học sĩ A Khắc Đôn (阿克敦), con trai của Binh bộ Thượng thư A Tư Cáp (阿思哈).[8]
Tổ tiên bảy đời của ông là Mục Đô Ba Nhan (穆都巴颜), ban đầu cư trú tại Nga Mục Hòa Đô Lỗ (俄穆和都鲁) ở Trường Bạch Sơn.[9] Thoạt đầu, ông theo học thầy Thẩm Đồng, nhờ ân trạch của phụ thân mà ông được làm Tự thừa của Đại lý tự,[4] đến năm Càn Long thứ 3 (1738), ông đậu Cử nhân.[10]
Cuộc đời
[sửa | sửa mã nguồn]Năm Càn Long thứ 4 (1739), ông nhậm chức Chủ sự ở Hộ bộ.[11] 1 năm sau thăng Viên ngoại lang.[12] Năm thứ 8 (1743), ông tiếp tục thăng làm Lang trung, đảm nhiệm Quân cơ Chương kinh (军机章京).[Chú 2] Cùng năm, ông được điều làm Lang trung Nhan liêu khố[Chú 3] của Hộ bộ. Năm thứ 10 (1745), lại tiếp tục điều làm Lang trung Ngân khố. Năm thứ 11 (1746), vì kho hàng bị trộm , ông bị giáng tội thất trách, giáng chức xuống Lại bộ Viên ngoại lang. Năm thứ 13 (1748), khi A Quế đang lãnh binh trong chiến dịch Đại Tiểu Kim Xuyên (diễn ra tại A Bá, Tứ Xuyên ngày nay), Nhạc Chung Kỳ đã tố cáo ông "câu kết với Trương Quảng Tứ, che giấu Nột Thân", ông bị bắt giữ tra hỏi. Năm thứ 14 (1749), Càn Long Đế niệm tình A Khắc Đôn đã lớn tuổi, nhiều năm cần cù, lại chỉ có con trai là A Quế, hơn nữa tội của A Quế không thể xem như là làm hỏng quân tình, liền hạ chỉ khoan thứ. Năm thứ 17 (1752), Càn Long Đế sai ông đi thay quyền Giang Tây Án sát sứ,[13] cùng năm thì chính thức nhậm chức.[14]
Năm thứ 18 (1783), ông được triệu về kinh, nhậm chức "Nội các Thị độc học sĩ".[15] Năm thứ 20 (1755), ông được đề bạt giữ chức Nội các Học sĩ kiêm hàm Lễ bộ Thị lang, được trấn áp cuộc nổi dậy của người Hồi giáo ở Tân Cương, từng tham gia bình định Chuẩn Cát Nhĩ. Năm thứ 21 (1756), vì A Khắc Đôn qua đời, A [12]Quế gặp đại tang phải quay về kinh. Cùng năm, ông thay quyền Phó Đô thống Mãn Châu Tương Lam kỳ, nhậm chức Tham tán đại thần, Phó Đô thống Mông Cổ Tương Hồng kỳ, trấn thủ ở Tây Bắc Đại Thanh. Năm thứ 22 (1757), ông được điều làm Công bộ hữu Thị lang.[16] Năm thứ 23 (1758), do có quân công nên ông được ban thưởng "Hoa linh".[Chú 4] Năm thứ 24 (1759), ông nhậm chức A Khắc Tô bạn sự Đại thần,[17] theo Triệu Huệ đi trấn áp loạn Đại Tiểu Hòa Trác; đến mùa đông năm đó, ông từ A Khắc Tô di trú đến Y Lê, nhậm chức Phó Đức quân doanh Tham án Đại thần,[18] chịu trách nhiệm tổ chức đồn điền.[19]
Năm thứ 25 (1760), ông được thăng làm Bạn sự Đại thần,[20] ban hàm Đô thống.[21] Đến năm thứ 26 (1761), A Quế thượng tấu nói thỉnh cầu triều đình chiêu nạp người Hồi đến Y Lê mở rộng đồn điền.[22] Cùng năm, ông trở về Bắc Kinh, được phong làm Nội đại thần, nhậm chức Công bộ Thượng thư, được vào Nghị chính xứ hành tẩu, kiêm chức Đô thống Hán quân Tương Lam kỳ. Năm thứ 27 (1762), nhờ xử lý mọi chuyện ở Y Lê tốt, ông được ban thế chức "Kỵ đô úy", được quyền cưỡi ngựa vào Tử Cấm Thành.[23] Năm thứ 28 (1763), ông được vào Quân cơ xứ hành tẩu, nhậm chức Kinh diên Giảng quan, Đô thống Mãn Châu Chính Hồng kỳ, được ban hàm Thái tử Thái bảo. Năm thứ 29 (1764), ông lần lượt thay quyền Y Lê Tướng quân và Tứ Xuyên Tổng đốc. Cùng năm, ông chính thức nhậm chức Tứ Xuyên Tổng đốc. Đến năm sau, A Quế nhậm chức Tháp Nhĩ Ba Cáp Đài Tham tán Đại thần ở Tân Cương,[24] ông cho xây Tuy Tĩnh thành.
Năm thứ 32 (1767), ông chính thức nhậm chức Y Lê Tướng quân (伊犂将军). Năm thứ 33 (1768), nhậm chức Binh bộ Thượng thư, Vân Quý Tổng đốc, tham gia Chiến tranh Thanh - Miến.[25] Ông đồng thời cũng nhiều lần thị sát đê Hoàng Hà, công trình đê biển Giang Chiết. Năm thứ 34 (1769), ông nhậm chức Chính Bạch kỳ Lĩnh thị vệ Nội đại thần, tạm thay quyền Vân Quý Tổng đốc.[26] Cùng năm, ông nhậm chức Lễ bộ Thượng thư. Năm thứ 35 (1770), ông kiêm chức Đô thống Hán quân Tương Hồng kỳ, nhậm Nội đại thần.[27] Năm thứ 36 (1771), ông thay quyền Tứ Xuyên Đề đốc.[28] Năm thứ 37 (1772), A Quế được phong làm Định Biên hữu Phó tướng quân,[29] xuất chinh lần thứ ba trong chiến dịch Đại Tiểu Kim Xuyên.[30]
Năm thứ 38 (1773), lần thứ hai ông nhậm chức Lễ bộ Thượng thư,[31] tiếp tục vào Nghị chính xứ hành tẩu,[32] được ban hàm Thái tử Thiếu bảo. Cùng năm, ông nhậm chức Định Tây Tướng quân,[33] cùng với Phó tướng Minh Lượng, Phong Thăng Ngạch, Tham tán Đại thần Thư Thường chỉnh lý quân vụ, một lần nữa xuất chinh đánh Cát Nhĩ Lạp. Sau khi quay về, ông được điều làm Hộ bộ Thượng thư.[34] Năm thứ 39 (1774), ông một lần nữa được ban hàm Thái tử Thái bảo,[35] trở thành Ngự tiền Đại thần.[36] Năm thứ 40 (1775), ông được điều làm Tương Hoàng kỳ Lĩnh thị vệ Nội đại thần.[37][38] Năm thứ 41 (1776), quân Thanh bình định được Kim Xuyên, ông ban cho "tử cương" (dây cương ngựa màu tím),[39] được chiếu phong là "Nhất đẳng Thành Mưu Anh Dũng công"[40], thăng chức Hiệp bạn Đại học sĩ, Lại bộ Thượng thư, Đô thống Mãn Châu Chính Hồng kỳ, vào Quân cơ xứ hành tẩu, được phép cưỡi ngựa trong Tử Cấm Thành.[41][42]
Năm thứ 42 (1777), A Quế nhậm chức Võ Anh điện Đại học sĩ (武英殿大学士)[43], quản lý Lại bộ kiêm Đô thống Mãn Châu Chính Hồng kỳ.[44] Không lâu sau, ông lại được điều làm Đô thống Mãn Châu Tương Bạch kỳ. Cùng năm, ông lần lượt nhậm chức Ngọc điệp quán Tổng tài, Quốc sử quán Tổng tài, Tứ khố Toàn thư quán Tổng tài, chịu trách nhiệm biên soạn Ngọc điệp của nhà Thanh, Quốc sử và Tứ khố toàn thư. Ông tiếp tục nhậm chức quản lý Văn Uyên các,[45] Kinh diên Giảng quan, Đô thống Mãn Châu Tương Hoàng kỳ,[46] quản lý Tam khố của Hộ bộ. Năm thứ 43 (1778), ông trở thành Độc quyển quan của kì thi Đình. Cùng năm, ông quản lý sự vụ Lý phiên viện, thay quyền Binh bộ Thượng thư,[47] Tổng Am đạt thượng hành tẩu.[48]
Năm thứ 45 (1780), ông kiêm chức Hàn Lâm viện Chưởng viện Học sĩ, đứng đầu Hàn lâm viện, chịu trách nhiệm giảng dạy cho Thứ Cát sĩ,[49] nhậm Nhật giảng Khởi cư chú quan.[50] Cũng trong năm này, lần thứ hai ông trở thành Độc quyển quan của kì thi Đình.[51] Năm thứ 46 (1781), nổ ra khởi nghĩa Tô Tứ Thập Tam ở Cam Túc, A Quế cùng Hòa Thân đốc quân trấn áp.[52] Năm thứ 48 (1783), ông quản lý sự vụ Hình bộ. Năm thứ 49 (1784), thế chức của ông được thăng lên Khinh xa Đô úy. Năm thứ 51 (1786), ông chịu trách nhiệm Tổng lý sự vụ Binh bộ.[53] Năm thứ 52 (1787), ông thay quyền Đô thống Mông Cổ Chính Hoàng kỳ.[53] Cùng năm, lần thứ ba ông chịu trách nhiệm làm Độc quyển quan của kì thi Đình, tiếp tục giảng dạy Thứ Cát sĩ. Năm thứ 54 (1789), ông trở thành Tổng Sư phó của Thượng Thư phòng. Năm Gia Khánh thứ 2 (1797), ngày 21 tháng 8 (âm lịch), A Quế bệnh mất tại Bắc Kinh, được truy thụy là Văn Thành (文成), tặng hàm Thái bảo,[54] được phối hưởng thờ trong Thái miếu của nhà Thanh và đưa vào thờ tự trong Hiền Lương từ.[55][56]
Tác phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]- 15 quyển "Quân nhu tắc lệ" (军需则例)
Gia quyến
[sửa | sửa mã nguồn]- Ông nội: Binh bộ Thượng thư A Tư Cáp (阿思哈, tiếng Mãn: ᠠᠰᡥᠠ, chuyển tả: Asha, ? - 1669), làm quan dưới triều Thuận Trị.
- Cha: Đại học sĩ A Khắc Đôn (阿克敦, 1685 - 1756), là nguyên lão tam triều, phục vụ dưới triều Khang Hi, Ung Chính, Càn Long.
- Con trai:
- Con gái: Chương Giai thị, Đích thê của Phụng ân Phụ quốc công Hoằng Dung (弘曧), con trai thứ 8 của Trang Khác Thân vương Dận Lộc. Có 2 con trai Vĩnh Phiên (永蕃) và Vĩnh Ngạc (永萼).
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Trai hiệu, còn xưng là trai danh, thất danh, am hiệu, thường là tên thư phòng của văn nhân nhã sĩ thời xưa, cho thấy gia thế, thân thế, trình độ và cả ước nguyện của chủ nhân.
- ^ Chương kinh (章京, tiếng Mãn: ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ, Möllendorff: janggin, đại từ điển: zhanggin, Abkai: janggin, tiếng Mông Cổ: Занги) dịch sang tiếng Hán là Tướng quân; đến năm 1634, Giáp lạt Ngạch chân được đổi gọi là Giáp lạt Chương kinh (tương tự Ngưu lục ngạch chân được đổi gọi là Ngưu lục Chương kinh; chỉ có Cố sơn Ngạch chân là không đổi). Năm 1660, Giáp lạt Chương kinh được định danh trong Hán ngữ là Tham lĩnh (Ngưu lục Chương kinh được định danh là Tá lĩnh)
- ^ Nhan liêu, tức thuốc màu, phẩm màu. Nhan liêu khố là kho quản lý những thứ này.
- ^ Hoa linh là lông khổng tước được gắn trên mũ của quan viên và tông thất, trên đó sẽ có các "nhãn" hình tròn, chia làm Đơn nhãn, Song nhãn và Tam nhãn.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Dương Đình Phúc & Dương Đồng Phủ 2001, tr. 1143, Quyển hạ
- ^ Hummel Arthur W 1943, tr. 163 - 167, Quyển 2
- ^ Tiễn Nghi Cát 2008, tr. 5, Tập 3, Quyển 28
- ^ a b Thái Quan Lạc 2008, tr. 623, Tập 2, phần 2
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 阿桂屢將大軍,知人善任使.諸將有戰績,以數語,或賚酒食,其人輒感激效死終其身.臨敵,夜對酒,深念得策,輒持酒以起,旦必有所號令.方溫福敗,受命代將.一日日欲暮,率十數騎升高阜覘賊砦.賊望見,獷騎數百環阜上.阿桂令從騎皆下馬,解衣裂懸林木,乃令上馬徐下阜.賊迫阜,從落日中旂幟,疑我師,方遣騎出偵,阿桂已還軍矣.師薄噶拉依,索諾木約以明日降,城柵盡毀.日暮,諸將謁阿桂,謂:「今日必生致索諾木,不然,慮有他.」阿桂不答,入帳臥.明旦,索諾木自縛詣帳下.阿桂謂諸將曰:「諸君昨日語,蓋慮索諾木他竄,或且死.我已得險要,竄安之?且能死,豈至今日?故吾以為無慮.」諸將皆謝服.及執政,尤識大體.康熙中,諸行省提鎮以次即有空名坐糧,雍正八年著為例.乾隆四十七年詔補實額,別給養廉.阿桂疏言:「國家經費驟加不覺其多,歲支則難為繼.此新增之餉,歲近三百萬,二十餘年即需七千萬.請除邊省外,無庸概增.」上不從.是時帑藏盈溢,其後漸至虛匱.此其一端也.乾隆末,和珅勢漸張,阿桂遇之不稍假借.不與同直廬,朝夕入直,必離立數十武.和珅就與語,漫應之,終不移一步.阿桂內念位將相,受恩遇無與比,乃坐視其亂政,徒以高宗春秋高,不敢遽言,遂未竟其志.
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1987, tr. 107 - 118, Quyển 26
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 阿桂,字廣庭,章佳氏.初為滿洲正藍旗人,以阿桂平回部駐伊治事有勞,改隸正白旗.
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 父大學士阿克敦,自有傳.
- ^ Hoằng Trú 2002, Quyển 40
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: "阿桂,乾隆三年舉人.初以父廕授大理寺丞,累遷吏部員外郎,充軍機處章京".
- ^ “Số 701007289”. Thanh sử quán Truyện cảo. Đài Bắc: Viện bảo tàng Cố cung Quốc gia.
- ^ a b Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1987, tr. 1, Quyển 26
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 31, Quyển 304
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 585-2, Quyển 427
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 十三年,從兵部尚書班第參金川軍事.訥親、張廣泗以無功被罪,岳鍾琪劾阿桂結張廣泗蔽訥親,逮問.十四年,上以阿克敦年老,無次子,治事勤勉;阿桂罪與貽誤軍事不同,特旨宥之.尋復官,擢江西按察使,召補內閣侍讀學士.
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 二十年,擢內閣學士.時方征準噶爾,命阿桂赴烏里雅蘇台督台站.逾年,父喪還京.旋復遣赴軍,授參贊大臣,命駐科布多,授鑲紅旗蒙古副都統.二十二年秋,授工部侍郎.輝特頭人舍楞約降,唐喀祿以兵往會,為所襲,阿桂率兵策應,上嘉之,賜花翎.上命阿桂與策布登扎布合軍擊舍楞,毋使逃入俄羅斯.阿桂言:「得降賊,謂舍楞將逃土爾扈特;或不達,且復回準噶爾.邀之中路,可擒獻.」上責其觀望,召還京.是年準部平,復命赴西路,與副將軍富德追捕餘賊.
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1998, tr. 7001, Chú thích tập 9, Quyển 213
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, tr. 431, Chú thích tập 1, Quyển 12
- ^ "Tân Cương Y Lê phủ Tuy Định huyện hương thổ chí" thời Quang Tự có ghi: “二十五年(1760年),特旨命阿桂为参赞大臣。是年,阿桂奏设绥定屯镇总兵,开办屯务,诏从之”。
- ^ Lưu Cẩm Tảo 1912, Quyển 78
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, tr. 436, Chú thích tập 1, Quyển 12
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 二十六年,疏言:「伊牧蕃息,請停內地購馬駝.增招葉爾羌、喀什噶爾、阿克蘇、烏什回民詣伊,廣屯田.」皆稱旨.迭授內大臣、工部尚書、鑲藍旗漢軍都統,仍駐伊.奏瑪納斯庫爾、喀喇烏蘇、晶河三地屯田,人授十五畝.
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 二十七年,疏定約束章程,建綏定、安遠二城,兵居、民房次第立,一如內地,數千里行旅晏然,予騎都尉世職.召還,賜紫禁城騎馬,命軍機處行走.調正紅旗滿洲都統,加太子太保.
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1987, tr. 3, Quyển 26
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 緬甸擾邊,總督劉藻、楊應琚先後得罪去,上命明瑞率師討之,至猛育,糧盡,戰沒.大學士傅恆自請行,三十三年,以傅恆為經略,阿桂及阿里袞為副將軍,仍授阿桂兵部尚書、雲貴總督.三十四年,以明德為總督,令阿桂專治軍事.阿桂請由銅壁關抵蠻暮,伐木造舟,俟經略至軍,進攻老官屯,且言軍糧不給.上以為畏怯,罷副將軍,改授參贊大臣.九月,舟成,傅恆亦至,分三路進:傅恆出萬仞關,由大金沙江西經猛拱、暮魯至老官屯;阿里袞率舟師循江下;阿桂率蠻暮新舟出江會之,先伏兵甘立寨.緬人從猛戛來拒,寨兵出擊,沉三舟,舟師噪應之,緬人大潰,殲其渠,遂與西岸軍合.老官屯守禦堅,軍士多病瘴,阿里袞卒於軍,復授阿桂副將軍.傅恆亦病,上命班師,而緬酋懵駁亦懲甘立寨之敗,遣使議受約束,乃召傅恆還.命阿桂留辦善後,授禮部尚書.
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 81-2, Quyển 831
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 624-1, Quyển 866
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 1091-1, Quyển 898
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 391-1, Quyển 923
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 三十八年正月朔,冒大雪,進奪當功噶爾拉諸碉,而溫福至木果木,索諾木誘降番叛襲軍後,斷登春糧道,我師潰,溫福死之.小金川與美諾等相繼陷.阿桂悉收降番械,毀碉寨,分置其人章谷、打箭爐,斬其桀驁者,親殿軍退駐達河.事聞,上怒甚,命發健銳營|健銳、火器兩營,黑龍江、吉林、伊額魯特兵五千,授阿桂定西將軍,明亮、豐昇額副將軍,舒常參贊大臣,整師再出.十月,攻下資哩.用番人木塔爾策,分師由中、南兩路進,潛軍登北山巔,遂取美諾,明亮等亦克僧格宗來會,凡七日,小金川平.三十九年正月朔,阿桂抵布朗郭宗,人裹十日糧,分三隊進,轉戰以前,克喇穆左右二山,贊巴拉克山、色依谷山.二月,克羅博瓦山,勒烏圍門戶也.賊退守喇穆山.部將海蘭察從間道破色漰普寨,繞出山後,賊退守薩甲山嶺.海蘭察奪其峭壁大碉,諸寨奪氣,同時下,乘勝臨遜克爾宗.僧格桑死於金川,金川酋獻其尸,而死守遜克爾宗.十月,阿桂用策先克默格爾山及凱立葉,於是日爾巴當噶諸碉反在我師後,遂悉平之.賊退守康薩爾山.時豐昇額出北路,師至凱立葉,望見煙火,以師來會;而明亮出南路,阻於庚額山;阿桂令移軍,冒雨破宜喜,與明亮軍隔河相望.十一月,克格魯克古丫口,金川東北之賊殆盡.四十年正月,克康薩爾山梁.二月,克沿河斯莫思達寨.四月,克木思工噶克丫口.五月,克下巴木通及勒吉爾博山梁,進據得式梯,復克噶爾丹寺、噶明噶等寨.進攻巴占,屢攻不下.分兵從舍圖枉卡繞擊,牽賊勢.七月,克昆色爾及果克多山,進克拉栝寺、菑則大海山梁,旋克章噶.八月,克隆斯得寨,遂克勒烏圍.捷聞,上遣阿桂子阿必達齎紅寶石頂賜之.九月,克當噶克底諸寨.十月,克達木噶.十一月,克西里山雅瑪朋寨.十二月,克薩爾歪諸寨,進據噶占.
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 437-2, Quyển 925
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 453-2, Quyển 926
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 694-2, Quyển 940
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1987, tr. 6, Quyển 26
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 931-1, Quyển 954
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1987, tr. 7, Quyển 26
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 847-2, Quyển 1033
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 356-1, Quyển 998
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 390-1, Quyển 1000
- ^ Phòng hồ sơ Minh - Thanh, Số 116488
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 510-2, Quyển 1006
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 四十一年正月,克瑪爾古當噶碉寨五百餘,遂圍噶拉依.索諾木母先赴河西集餘,大兵合圍,與其子絕,遂降.阿桂令作書招索諾木,而其頭目降者相繼,索諾木乃率降.金川平,安置降番,設副將、同知分駐其地.詔封一等誠謀英勇公,進協辦大學士、吏部尚書、軍機處行走.四月,班師.上幸良鄉城南行郊勞禮,賜御用鞍馬.還京獻俘,御紫光閣,行飲至禮,賜紫韁、四開褉袍.
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 初,阿桂去雲南,緬甸遣使議入貢,械送京師下獄.至是誅索諾木母子頭人,上命釋緬使令觀,譯告以故,縱之歸,冀以威武風動之.四十二年,署雲貴總督圖思德奏:「懵駁死,子贅角牙立,輸誠納貢,願歸中國人.請開關通市.」上以事重,當有重臣相度受成,命阿桂往蒞.五月,授武英殿大學士,管理吏部,兼正紅旗滿洲都統.緬甸使不至,遣蘇爾相等歸,遂召阿桂還.未幾,緬甸內亂.又十餘年,國王孟隕具表祝上八旬聖壽,定十年一貢.南徼始安.
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 850-1, Quyển 1033
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 892-2, Quyển 1037
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 953-1, Quyển 1042
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 206-2, Quyển 1062
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 860-1, Quyển 1111
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 778-2, Quyển 1104
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 793-2, Quyển 1105
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1799, tr. 802-1, Quyển 1106
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 甘肅撒拉爾新教蘇四十三與老教仇殺,戕官吏.總督勒爾謹捕教首馬明心下獄,同教回民二千餘夜濟洮河犯蘭州,噪索明心.布政使王廷贊誅明心,賊愈熾.上命阿桂視師,時阿桂猶在工.命和珅往督戰,失利.賊據龍虎、華林諸山,道險隘.阿桂至,設圍絕其水道,進攻之,賊大潰.殲蘇四十三,餘黨奔華林寺,焚之,無一降者.甘肅冒賑事發,命按治,盡得大小官吏舞弊分賕狀,讞定,疏請增設倉,廣儲糧石,以濟民食.
- ^ a b Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1987, tr. 10, Quyển 26
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1987, tr. 12, Quyển 26
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh 1824, tr. 273-1, Quyển 21
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1928, Quyển 318 - A Quế truyện: 嘉慶元年,高宗內禪,阿桂奉冊寶.再舉千叟宴,仍領班,於是阿桂年八十矣,疏辭領兵部.二年八月,卒,清仁宗|仁宗臨其喪.贈太保,祀賢良祠,諡文成
Tài liệu
[sửa | sửa mã nguồn]- Thanh sử cảo, Quyển 318, A Quế truyện
- Gia Nghĩa huyện chí, Liệt truyện
- Dương Đình Phúc; Dương Đồng Phủ (2001). Tra cứu thất danh biệt xưng tự hiệu của người nhà Thanh. Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải. ISBN 9787532529711.
- Tiễn Nghi Cát (2008). Bi truyện tập. Trung Hoa thư cục. ISBN 9787101010787.
- Thái Quan Lạc (2008). Thanh đại thất bách Danh nhân truyện lược. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Đồ thư quán. ISBN 9787501335909.
- Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1987). Vương Chung Hàn (biên tập). Thanh sử Liệt truyện. Trung Hoa thư cục. ISBN 9787101003703.
- Hummel Arthur W (1943). Thanh đại Danh nhân truyện lược. Washington, DC: U.S. Government Printing Office. ISBN 978-1-906876-06-7.
- Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799). Khánh Quế; Đổng Cáo (biên tập). Cao Tông Thuần Hoàng đế Thực lục. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2020.
- Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1824). Tào Chấn Dong; Đới Quân Nguyên (biên tập). Nhân Tông Duệ Hoàng đế Thực lục. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2020.
- Triệu Nhĩ Tốn (1998). Thanh sử cảo. Trung Hoa thư cục. ISBN 9787101007503.
- Triệu Nhĩ Tốn (1928). “Quyển 318 , Liệt truyện 105 - A Quế truyện”. Thanh sử cảo.
- Lưu Cẩm Tảo (1912). Thanh triều tục Văn hiến Thông khảo (pdf).
- Phòng hồ sơ Minh - Thanh. “Nội các đại khố đương án”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2015.
- Hoằng Trú (2002). Bát kỳ Mãn Châu thị tộc Thông phổ. Nhà xuất bản Liêu Hải. ISBN 9787806691892.
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Quan Tứ khố toàn thư quán
- Nhân vật phối hưởng Thái miếu nhà Thanh
- Nhân vật chính trị nhà Thanh
- Được thờ trong Hiền lương từ nhà Thanh
- Sinh năm 1717
- Mất năm 1797
- Nhân vật quân sự nhà Thanh
- Quý tộc nhà Thanh
- Quân cơ đại thần
- Người Mãn Châu Chính Bạch kỳ
- Thái tử tam sư nhà Thanh
- Lĩnh thị vệ Nội đại thần
- Nội đại thần
- Ngự tiền đại thần
- Đại học sĩ nhà Thanh
- Thượng thư nhà Thanh
- Đô thống nhà Thanh