Chapter Text
Tobio nhớ, hồi còn nhỏ, Narasaki-san sống đối diện nhà hắn có nuôi một con mèo. Chobi, trái ngược hẳn với cái tên, là một con mèo to vật vã ngang ngửa một con hổ nhỏ, và già khú đế, tuổi đời lớn gấp ba tuổi hắn khi ấy. Hắn đặc biệt nhớ Chobi, một phần bởi nó có ngoại hình rất đối xứng, nửa trái hung đỏ đi kèm mắt xanh dương, nửa phải đen tuyền mắt lục vàng, chia đôi nửa nọ nửa kia như thái cực đồ, như Janus, như hai thế giới song song liền kề nhau; cũng bởi nó là một trong số ít những động vật nhỏ không những cho phép hắn lại gần, mà còn để hắn vuốt ve chơi cùng, ngửa cổ chớp chớp mắt chầm chậm với hắn rất ngáo ngơ mà cũng rất hiếu kỳ trước nỗ lực dạy nó xoay vòng của hắn. Người ta vẫn nói rằng khó mà dạy chó già trò mới, hẳn là cũng áp dụng với cả mèo nữa.
Một ngày đẹp trời vào mùa xuân năm Tobio năm tuổi, hắn đi mẫu giáo về qua nhà Narasaki-san chơi bởi hôm ấy ông ngoại đi họp lớp cấp ba ở Tokyo, chị gái hắn sinh hoạt câu lạc bộ tối muộn mới về và ba mẹ hắn thì vẫn bận bịu công việc như mọi khi. Narasaki-san gọt táo hình thỏ cho hắn ăn và nghe hắn giải thích "bức tranh" của mình—bắt đầu bằng đặt số một ở chính giữa mạng lưới rồi viết từng số nguyên tiếp theo theo đường xoáy trôn ốc ngược chiều kim đồng hồ xung quanh điểm trung tâm này, cuối cùng đánh dấu các số nguyên tố là những số không chia hết được cho bất kỳ số nào khác ngoại trừ 1 và chính nó, và mình có một đường xoáy như thế này, những tưởng số nguyên tố được phân bổ ngẫu nhiên trong tập hợp số nguyên tuy nhiên khi mình vẽ hẳn ra như thế này mới thấy dường như chúng tạo nên những đường chéo, các cụm trông có vẻ rất chủ đích*. Chobi, như thường lệ, cuộn mình trong lòng hắn thiu thiu ngủ.
Nó không bao giờ tỉnh dậy nữa.
Mùa hè năm ấy, Narasaki-san cũng chìm vào giấc ngủ ngàn thu. Hai cậu con trai bà sau một hồi bàn bạc cùng nhất trí bán căn nhà ấy đi. Tobio xuất viện cùng ngày với chủ nhân mới chuyển vào, một cặp vợ chồng mới cưới.
Mười năm sau, khi nhà Asano chuẩn bị chào đón đứa con thứ hai, nhà Kageyama cũng rời khỏi khu ấy.
.
.
.
Kageyama Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, hắn được sinh ra với một cơ thể lành lặn khỏe mạnh. Mẹ không cần phải rời thương trường về chăm bẵm hắn. Hắn lớn lên trong vòng tay chở che dẫn dắt của ông ngoại và chị gái. Khi hắn lên năm, ông ngoại chuyền cho hắn một trái bóng da, đây là trái bóng dùng trong môn bóng chuyền, và đấy là tình yêu sét đánh.
Trong giấc mơ ấy, hắn không những được trời phú cho một cơ thể khỏe mạnh không khiếm khuyết, mà thậm chí còn có tố chất thể thao. Hắn có thể chạy phăm phăm mười cây số liền tù tì không thấy mệt. Hắn có thể dẻo dai duỗi người căng cơ bẻ khớp ở những góc độ tréo ngoe không thấy đau nhức. Hắn có thể đuổi kịp những trái bóng bay lạc chỉ trong nháy mắt, có thể vươn tay vươn chân thật dài, thật cao, trở thành tấm lưới an toàn bao phủ khắp sân bóng. Bàn tay hắn đập bóng xé gió cắm đầu lao đi như tên bắn và nã xuống phía bên kia sân như đạn thần công. Trái bóng vụt khỏi tay bay theo đúng cung đường hắn muốn, ở một tốc độ hắn muốn, tới chuẩn chỉ tại vị trí và tại thời điểm hắn muốn.
Trong giấc mơ ấy, bóng chuyền đến với hắn dễ dàng như hít thở.
Trong giấc mơ ấy, bóng chuyền yêu hắn và hắn cũng yêu bóng chuyền.
Âu cũng là công bằng.
.
.
.
Kageyama Tobio vốn dĩ không phải là một đứa trẻ hiếu động. Ngược lại hoàn toàn là đằng khác: hắn đặc biệt ghét vận động. Hắn thể lực yếu, chạy một tí là mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thở hồng hộc không ra hơi, mệt mỏi ê ẩm khắp nơi, cúi gập người xuống túm ngực mà nôn khan. Cái tình trạng sống dở chết dở này là có lý do cả, tuy nhiên lúc đấy họ vẫn chưa biết.
Những gì họ biết là đứa thứ hai nhà Kageyama trái ngược một trời một vực với cô chị gái năng nổ hoạt bát: thằng nhỏ ăn rất ngoan ngủ rất yên, có ốm sốt khặc khừ cũng không hề mè nheo quấy khóc, người lớn bận rộn chỉ cần đưa cho bé con mấy khối gỗ, mấy mảnh ghép xếp hình, lớn hơn một chút thì là một bài toán, 11.213 có chia hết cho số nào khác ngoại trừ 1 và chính nó không, tìm quy luật nhận biết một số chia hết cho 7, hay một câu đố, cần bao nhiêu cái cốc giấy để xếp thành một cái tháp hình tam giác, có thể nối tất cả các điểm này mà không nhấc bút không, và nhóc con có thể tự chơi một mình cả ngày cho đến khi ba mẹ về đến nhà thì hớn hở khoe, 11.213 không chia hết cho số nào khác ngoài 1 và chính nó, nhưng 11.213 là tổng của hai số bình phương, 67 bình phương cộng 82 bình phương, cũng là độ dài cạnh huyền của một tam giác vuông có hai cạnh góc vuông là 2235 và 10.988; nếu tổng của năm lần chữ số cuối cùng và phần còn lại, hoặc lấy ba lần chữ số đầu tiên cộng với chữ số tiếp theo xong viết nốt phần còn lại, hay lấy chữ số cuối cùng nhân 2 hoặc nhân 9 rồi xét hiệu giữa phần còn lại và số này, nếu ra bội của 7 thì số ban đầu chia hết cho 7; muốn xếp n hàng cốc thì cần n số tự nhiên từ 1 đến n, tức n(n 1)/2; nếu như tất cả các điểm có số cạnh có thể nối vào điểm ấy là một số chẵn thì có thể nối tất cả các điểm với nhau không cần nhấc bút, thậm chí có thể thành một vòng kín là đằng khác, bởi vì ba mẹ là những người duy nhất hào hứng với những phát kiến nho nhỏ này của hắn.
Trẻ nhỏ ngoan ngoãn vâng lời là rất đáng khen, tuy nhiên vì cớ gì đấy ông ngoại vẫn thường có cái vẻ quan ngại này mỗi khi thấy cháu trai ngồi giữa một đống giấy nháp hì hụi tính toán. Ông quan niệm rằng con nít có hiếu động, có nghịch ngợm một chút cũng là tốt, cũng là lành mạnh, cũng là hữu ích cho sự phát triển toàn diện cá nhân; thế nên chiều nào cũng lôi hắn ra vườn tưới cây làm cỏ, hoặc đi chợ mua đồ ăn, hôm nào đội bóng chuyền ông nhận huấn luyện có họp thì bưng hắn theo cùng. Ông vẫn thường hay trách mắng mẹ về vấn đề này, rằng mẹ thờ ơ cẩu thả quá, ai đời lại vứt con nó một xó tự chơi một mình như thế, ai đời cứ vứt nó trong nhà, trong văn phòng ngột ngạt như thế, cây không có nắng có gió sao mà lớn khỏe được; và mẹ sẽ vặc lại, có mà ông tùy tiện thì có, cháu nó đã ốm yếu thì chớ ông cứ vác nó lông nhông ngoài đường suốt ngày, nó cũng thích làm toán, cũng có năng khiếu, ít nhất thì con còn biết nó giỏi cái gì để mà nuôi dưỡng cái tài năng ấy, không như bố, và hai cha con lại bị cuốn vào một cuộc tranh cãi nảy lửa khác và ba buộc phải nhảy vào can ngăn.
Kageyama Chihiro là con gái độc nhất của Kageyama Kazuyo, tuy nhiên bà không có gì giống cha mình hết, từ ngoại hình cho đến tính cách. Kazuyo khá cao lớn—ít nhất là so sánh mặt bằng chung thế hệ ông—có năng lực thể chất và ưa vận động, không lúc nào ngồi yên một chỗ được, trong khi Chihiro bé nhỏ mảnh mai có thể miệt mài trước máy tính nơi bàn giấy mần mò với những dãy số khổng lồ và những công thức lằng nhằng phức tạp ngày qua ngày quên ăn quên ngủ. Kazuyo cần cù chân chất, trong khi Chihiro từ nhỏ đã biết cách chi li cân đo đong đếm thiệt hơn. Kazuyo từ lâu đã chấp nhận an phận, tìm kiếm hạnh phúc từ những điều bình dị nhất trong cuộc sống thường nhật, trong khi Chihiro có nhiều ước mơ, có nhiều hoài bão, có thừa cả tài năng lẫn nghị lực để vươn tới những tham vọng tưởng chừng như viển vông ấy. Kazuyo góa vợ sớm, một mình gà trống nuôi con, ấy thế mà đủ mười tám tuổi Chihiro cứ thế vách va-li lên chuyến bay một chiều đến Frankfurt không hề ngoảnh lại lấy một lần—ít nhất là cho đến khi hay tin dữ từ quê nhà mà tức tốc chạy về và ở lại luôn không đi đâu nữa. Bất đồng quan điểm là chuyện bình thường, ngay cả khi đấy là giữa hai người rõ ràng là yêu thương nhau rất nhiều, ba vẫn bảo hắn như vậy, bồng hắn vào lòng dỗ dành sau mỗi lần ông ngoại và mẹ lớn tiếng nặng nề với nhau. Rằng hai người khác nhau sẽ có cách bày tỏ tình cảm khác nhau, nhưng suy cho cùng vẫn là muốn những gì tốt đẹp nhất cho người kia, cho dù quan niệm của họ về cái thứ quý báu nhất ấy là khác nhau.
Cơ mà, phận làm con, làm cháu, Tobio thật sự không muốn làm bất cứ ai trong số họ phải phiền muộn. Chọn ai cũng thấy bất công.
Nghe con trai khổ sở tâm sự như vậy, ba mỉm cười. Nụ cười trên gương mặt ba vẫn thật hiền từ uyên bác như mọi khi, nhưng cũng có gì đấy thật u sầu, thật chua chát.
"Ai bắt con phải chọn," ba bảo. "Ai bắt con chỉ được chọn một trong hai, hay đã chọn là phải lấy toàn phần. Con hoàn toàn có quyền chọn những phần con muốn, học những thứ con muốn học. Học tất cũng được, không ai cấm." Ba xoa đầu hắn, xong vòng tay quanh hắn, ôm hắn chặt hơn bao giờ hết. Lòng ba ấm áp hơn bao giờ hết. Hắn thật sự không muốn rời đi, ước gì hắn có thể mãi mãi cuộn mình nơi này. "Con từ hồi nào tới giờ vẫn là một đứa thích học và giỏi học mà."
Tri thức là sức mạnh. Đấy là một trong những bài học đầu tiên trong đời Tobio thấm thía được, chẳng mấy chốc đã khắc cốt ghi tâm thành chấp niệm sống. Không có thứ gì đã tồn tại trên thế giới này mà lại vô dụng hết, chỉ là mày chưa tìm thấy, chưa nghĩ ra được công dụng cho nó. Bảo hắn tham lam, nhưng có tham một chút cũng không phải là cái gì xấu, có ăn nhiều mới lớn, mới khỏe được, có học nhiều, có luyện nhiều, có làm nhiều mới giỏi được. Không lý gì tồn tại trên thế giới này mà không cố gắng trở thành bản thể tốt đẹp nhất mày có thể trở thành, bởi vì đời người dù sao cũng vẫn là ngắn ngủi, cũng vẫn là có hạn, tại sao không cố gắng làm được nhiều nhất, tại sao không cố gắng tiếp thu được nhiều tinh hoa, nhiều trải nghiệm nhất có thể, dù là xấu hay đẹp, trước khi mày chết?
Thế nên Tobio vẫn lò dò mò lên trường đại học hóng hớt mẹ giảng bài cho sinh viên, thế nên hắn vẫn xin mẹ mấy bài toán hóc búa mà nghiền ngẫm. Hắn vốn dĩ đã có cái đầu nhanh nhạy, học một hiểu mười, học nhanh nhớ lâu, những đề toán mẹ ra từ những câu đố về những con số cụ thể, về logic tường minh, về đồ thị trực quan dần dà trở nên trừu tượng hơn, hàn lâm hơn, từ số chuyển sang biểu tượng, từ một ẩn lên hai ẩn lên ba ẩn lên n ẩn, từ phép tính chuyển sang thuật toán, từ một chiều lên hai chiều lên ba chiều lên n chiều, từ giải đề thi cuối kỳ cho sinh viên sang tự tìm kiếm những bài toán trong đời sống hàng ngày và thiết kế mô hình, thiết kế phương pháp giải. Thế nên hắn vẫn phụ ông ngoại làm vườn và đi chợ, thế nên sáng hắn vẫn nghe lời cùng ông chạy bộ thể dục, chiều hắn vẫn cùng ông chơi bóng chuyền ngoài sân sau, vẫn theo ông đến quan sát mấy buổi tập của các đàn chị, vẫn tham gia vào câu lạc bộ bóng chuyền của trường. Hắn có thể vốn dĩ không có sức khỏe, nhưng cái đấy có thể cải thiện được bằng cần cù và kiên nhẫn, không phải như ông ngoại nói không đúng, vận động cơ bắp cho máu huyết lưu thông tốt hơn cũng là bổ ích cho vận động cơ não, trên sân bóng chuyền trông thế mà cũng phải vận động cơ não tương đối nhiều, một lũ vai u thịt bắp dù sao cũng cần một thằng não nhiều nếp nhăn, giỏi tính toán, giỏi thao túng cuộc chơi hậu thuẫn.
Thế nên hắn vẫn rúc sâu hơn vào trong lòng ba, mười vạn câu hỏi vì sao thồn sẵn trong miệng làm hai má phồng lên phúng phính như chuột sóc, chỉ đợi cơ hội phun ra.
Con người ai rồi mà chả chết.
Làm thế nào để rồi đến khi mày chết, mày không có gì phải hối tiếc hết.
Đêm hôm ấy, Tobio thiếp đi trong vòng tay ba, đắm chìm trong tông giọng trầm ấm du dương của ba. Ba kể về một con mèo trong một cái hộp kín, với một ống đếm Geiger, một mẩu vật chất phóng xạ trong vòng một tiếng chỉ có 50% phát ra tia và một lọ hydrocyanic acid. Nếu có tia phóng xạ phát ra, ống đếm Geiger sẽ nhận tín hiệu, thả rơi cái búa đập vỡ lọ thuốc độc và con mèo sẽ chết. Nếu trong một tiếng đồng hồ vẫn không có tia phóng xạ nào, con mèo sẽ sống.
Đến lúc mở hộp, mày nghĩ con mèo vẫn còn sống hay đã chết?
.
.
.
Kageyama Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, hắn vẫn cố gắng hết mình, ngày đêm học hỏi, ngày đêm luyện tập, ngày đêm mài dũa kỹ năng của mình. Không lý gì lại không cố gắng hết sức, bất kể mày mang lại điều gì vào cuộc chơi. Nói thế nhưng tài năng thiên phú khiến trò chơi trở nên ngọt ngào hơn, chẳng phải sẽ thú vị hơn khi mày giỏi một thứ mà mày yêu bằng cả trái tim sao?
Trong giấc mơ ấy, Oikawa Tooru vẫn không chịu dạy hắn chuyền bóng, không chịu dạy hắn giao bóng, cho dù hắn có nài nỉ thế nào đi chăng nữa.
Trong giấc mơ ấy, hắn vẫn là chuyền hai chính thức của Kitagawa Daiichi hai năm trời. Trong giấc mơ ấy, đồng đội Kitagawa Daiichi vẫn gọi hắn là Vua, là Đế vương Sân bóng. Mọi thứ hắn làm là vì bóng chuyền, và nếu hắn muốn chơi, hắn phải thắng, bởi vì bóng chuyền cốt yếu vẫn là một môn thể thao cạnh tranh. Nếu như hắn muốn tiếp tục chơi với tư cách là một chuyền hai, hắn phải đảm bảo rằng đồng đội hắn có thể đập bóng ăn điểm. Đấy âu cũng là trách nhiệm của một chuyền hai: là hồ dán kết nối chuyển động của trái bóng, của cả đội bóng với nhau. Sức mạnh của hắn có thể là sức mạnh của những người xung quanh. Nếu như hắn có thể gánh vác phần lớn gánh nặng, chẳng phải ai nấy đều cùng hưởng lợi hay sao? Tại sao không ai nhìn ra được cái điều rất đơn giản tường minh như thế này?
Có điều, trong giấc mơ này, hắn không phải Marcus Aurelius, mà là Domitian.
Trong giấc mơ ấy, động đất vẫn làm rung chuyển cả đất nước, sóng thần vẫn xối xả xuống bờ đông Tohoku. Lõi của lò phản ứng hạt nhân Fukushima Daiichi vẫn tan chảy và bốc cháy. Hắn vẫn tìm thấy ông ngoại bất động trên sàn giữa vũng trà rooibos lênh láng đỏ như máu.
Trong giấc mơ ấy, hắn vẫn bắt buộc phải rời sân giữa trận. Trong giấc mơ ấy, Kitagawa Daiichi vẫn thua học viện Kousen trong trận bán kết giải vô địch khu vực Miyagi.
Trong giấc mơ ấy, đồng đội hắn khai tử hắn, như quần thần đã tự tay ám sát Domitian thuở nào.
.
.
.
Kể ra làm toán cũng cực kỳ cô độc.
Toán nằm trong tốp đầu danh sách những môn học đại đa số bạn bè đồng trang lứa hắn chán ghét nhất khi lên lớp. Những đứa có giỏi toán hơn một chút thì cũng không bằng hắn, bởi vì không phải thằng nào cũng có mẹ là giảng viên toán ở một trong những trường đại học danh giá nhất đất nước, không phải thằng nào tan học không họp câu lạc bộ thì cũng vác xác lên giảng đường ngồi nghe mấy ông bà già lè nhè về phương trình vi phân thường hay lý thuyết tập hợp với giải tích xác suất; khi đám bạn cùng lớp, cùng câu lạc bộ hỏi hắn đang làm gì, hắn chỉ có thể liên thuyên về bài toán điều kiện ban đầu và không gian đếm được và phân phối xác suất liên tục và chúng nó rõ ràng là không hiểu cái quần gì hết và dễ là nghĩ hắn nghe điên rồ lắm. Cậu thông minh thật đấy, những đứa lịch sự tốt tính hơn sẽ bảo hắn như vậy, vừa kinh qua hai tiết toán xong chưa đủ hả bây, thành phần ngu toán và ngán toán sẽ vuốt mặt với hắn như thế, đúng là một thằng mọt sách, đám bắt nạt xấu tính sẽ cười cợt.
Đành rằng chương trình phổ thông dạy toán mười hai năm, trong đời sống hằng ngày người ta không cần nhiều toán hơn là cộng trừ nhân chia cơ bản, và ngay cả mấy phép tính vặt vãnh ấy cũng đã có máy tính làm hộ. Toán không như lý, không như hóa, không như sinh, lý thuyết dẫu có rắc rối khó hiểu nhưng các hiện tượng vẫn có thể quan sát tận mắt được, Bắc Cực quang và pháo hoa và những cánh bướm sặc sỡ độc đáo đậu trên những đóa hoa diễm lệ vẫn có thể khiến người ta trầm trồ thán phục. Không như toán, lĩnh vực mà bản thân chính những định lý khô khan, những công thức loằng ngoằng, những con số lạnh lùng bộc trực lại là mục tiêu, lại là mỹ cảnh mãn nhãn màu nhiệm nhất.
Nếu như không có mẹ, không có các giáo sư tiến sĩ đồng nghiệp của mẹ dung túng chiều chuộng nhóc con với mười vạn câu hỏi vì sao, hắn nghĩ hắn chết mất.
Một thằng vừa còm nhỏm vừa biết tuốt hiển nhiên sẽ là một miếng mồi báu bở cho hội lưu manh cậy lớn ăn hiếp bé, nếu không phải nhờ dàn vệ sĩ đông đảo từ đội bóng chuyền bao quanh che chắn. Hắn hiểu cái kiểu đầu to trầm mặc nghiêm nghị như hắn không phải là dễ thương gì cho cam, tuy nhiên thi đấu thể thao người ta sẽ có xu hướng ganh ghét với một thằng có tố chất thiên bẩm như siêu nhân hơn là một tên chạy được hai ba vòng là thở, đập bóng thì lẹt đà lẹt đẹt.
Bóng chuyền không như toán. Toán là một môn ngành thật sự rất cô độc, chưa kể lại còn phân nhánh ra ti tỉ bộ nhóm nhỏ khác: toán thuần túy và toán ứng dụng và logic học nền tảng và toán vi tính và toán vật lý, đại số và giải tích và hình học và lý thuyết số và topology, lý thuyết đồ thị và xác suất thống kê và tối ưu hóa, giải tích số và mật mã học và lý thuyết trò chơi và tài chính định lượng và kinh tế vi mô và cơ học lượng tử và thuyết tương đối**, vân vân và mây mây, tầng tầng lớp lớp nhấn chìm người ta đến mức cảm tưởng như chết đuối trong sự cô độc ấy được. Mẹ chuyên mảng kinh tế định lượng và quá trình ngẫu nhiên, đọc tiêu đề mấy bài nghiên cứu chuyên sâu về nhóm Lie vô hạn chiều hay bài toán nghịch đảo trong âm học phi tuyến tính và đàn hồi học không hiểu nổi mấy cái đấy là gì trong khi cái thứ hai thằng con mười sáu tuổi chuyên hệ phương pháp số cho hệ thống phức tạp thì là một món vừa ngon miệng vừa dễ tiêu; trưởng ban giáo sư tiến sĩ Shiotani chuyên mảng hình học ngẫu đối đọc nghiên cứu mảng hình học Riemann về điểm kỳ dị của dòng chảy Ricci và phẫu thuật ở các chiều cao hơn cũng không hình dung được nó là cái gì. Cái này là chuyện thường tình khi mày theo nghiệp toán: mày có thể có hai nhà toán học cùng chuyên về một lĩnh vực, chẳng hạn như hình học giải tích, nhưng lại đi sâu vào mỗi mảng khác nhau nên đọc nghiên cứu của nhau cũng chẳng hiểu cái quần gì hết. Công trình nghiên cứu mày mất cả đời gây dựng có thể chỉ có dăm ba người đọc, và trong số dăm ba người đấy chắc cũng chỉ một hai người hiểu được, đến cuối ngày hội toán cố gắng chày bửa chỉ vì cái sự công nhận đầy miễn cưỡng của một vài đồng chí thân thiết.
Bóng chuyền không như toán. Bóng chuyền suy cho cùng là một môn thể thao đồng đội. Trên sàn đấu không chỉ có mình hắn mà còn năm tuyển thủ nữa đứng cùng một phía với hắn, đồng tâm hợp lực kết nối chuyển động của trái bóng đưa nó tới đích. Hắn chuyền bóng sẽ có người đập. Hắn giao bóng đối thủ sẽ hớt hơ hớt hải chạy đuổi theo đỡ. Hắn dạy đám đàn em giao bóng sao cho đồng đều nhất quán chúng nó vẫn hiểu, vẫn nghe theo, vẫn làm được theo. Hắn phân tích thế trận, bên kia đang dè chừng Kindaichi, chúng nó đang cố gắng đẩy nhịp độ trận đấu nhanh hơn, số 8 không đập bóng cũng lâu rồi, thể nào đợt tới bên kia cũng sẽ lại làm một pha kết hợp tấn công nhanh cho mà xem nên chuẩn bị tinh thần đi, đội này vốn dĩ chuyên thủ, nổi tiếng với khả năng dự đoán các đòn tấn công thành thần, không tập trung quá mức vào tay đập mà theo dõi chuyền hai nhiều hơn để rồi sắp xếp hàng chắn sao cho hợp lý, và trình bày chiến lược, không cần cố đấm ăn xôi vượt qua hàng chắn làm gì, để bóng bật lại hay bắt chúng nó phạm lỗi cũng được, mình sẽ không đi theo phương án "tối ưu" nữa, tôi sẽ dùng phương pháp xác suất, thằng nào rồi cũng sẽ được đập bóng, chỉ cần chờ tín hiệu, vẫn có người dỏng tai lên chăm chú lắng nghe từng từ một, vẫn có kẻ gật gù thông hiểu, thậm chí trầm trồ tán dương. Tobio không hiểu. Đâu phải như hắn làm cái gì vi diệu lỗi lạc lắm đâu. Tất cả đều chỉ là lý thuyết trò chơi—là toán; không hẳn là sở trường của hắn nhưng miễn là toán thì hắn vẫn là bất khả chiến bại.
Kitagawa Daiichi từ hồi nào tới giờ vẫn là một đội chuyên công kích, chỉ là không phải công kích bằng sức mạnh áp đảo thô bạo, mà thông qua sự tỉ mỉ tinh vi trong từng chuyển động, từng phối hợp, từng chiến thuật, mọi bước đi, mọi đường chuyền, mọi cú đập đều là có chủ đích. Chẳng cứ gì mà Kitagawa Daiichi lại sản xuất ra một loạt những chuyền hai xuất chúng như thế, bảng xếp hạng chuyền hai giỏi nhất phân khu Miyagi mấy vị trí đầu đều được cựu thành viên câu lạc bộ bóng chuyền sơ trung Kitagawa Daiichi ẵm gọn, từ Oikawa Tooru đến Kageyama Tobio tới Fujiwara Hiroomi rồi sau này là Kuroiwa Tatsuya.
Đương kim Đế vương Kageyama Tobio có thể không có năng lực thể chất, cơ mà năng lực trí tuệ thì có thừa. Oikawa Tooru là một chuyền hai đáng tin cậy, uyển chuyển khéo léo cân đối và phát huy tối đa thế mạnh của tay đập, nhưng Kageyama Tobio mới là chuyền hai lắm mưu thâm kế độc, biết cách bày binh bố trận và tường tận nghệ thuật chỉ đạo và tiến hành chiến tranh.
À.
Ra là vậy.
Hẳn là vậy.
Hẳn là đấy là lý do vì sao đồng đội lại gọi hắn là Đế vương Sân bóng.
.
.
.
Kageyama Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, hắn cũng từ chối lời mời của Aoba Johsai. Trong giấc mơ ấy, hắn vẫn cố đấm ăn xôi thi vào Shiratorizawa, cho dù hắn đã dành mọi tâm huyết vào bóng chuyền thành thử ra ngu toàn tập ở tất cả các mảng còn lại. Trong giấc mơ ấy, hắn thậm chí còn không chỉ thiếu một nửa điểm hèn mọn do văn quá kém toán được điểm tuyệt đối cũng không vớt lên nổi, mà cả đôi cùng vô phương cứu chữa.
Trong giấc mơ ấy, hắn vẫn vào Karasuno.
.
.
.
Khi Tobio vào sơ trung, khoa Toán của Đại học Tohoku có thu nạp một giảng viên mới. Giáo sư Tiến sĩ Kurata Yuuri mới ba mươi lăm tuổi, mặt vẫn còn búng ra sữa—ít nhất là so sánh với các đồng nghiệp—, kỳ ấy dạy hai lớp: Toán Đại cương 1 cho sinh viên năm nhất ngành Kỹ thuật Cơ khí, và Mô phỏng Số cho hội chuyên toán. Mô phỏng Số là môn bắt buộc, cho sinh viên kỳ thứ tư hoặc năm, trị giá 5 tín chỉ, lên lớp hai buổi một tuần, cứ hai tuần sẽ có một giờ thực hành trong phòng máy. Tobio chỉ đi được buổi thứ Năm vì lúc ấy đã tan trường. Dù sao thì lên đại học ít khi nào giảng viên điểm danh gô cổ đi học như tiểu học hay trung học, chúng mày lớn hết cả rồi, biết đường mà tự giác. Mô phỏng Số là môn bắt buộc nhưng không phải là một môn dễ, có một đống sinh viên không tốt nghiệp nổi chỉ vì cái môn trời đánh này—căn bản cũng tại người tiền nhiệm của Kurata, một lão già khú đế tóc bạc phơ tên Ichijou, dạy đã khó thi lại toàn ra đề khó—nghe kỳ này đổi giảng viên hiển nhiên là lớp đông nghịt, toàn những thành phần "đm tao chỉ còn thiếu mỗi môn của nợ này nữa thôi là ra được trường".
Kurata khá giống mẹ: trông thì nghiêm nghị kỷ cương khó gần, thực tế chỉ đơn thuần là làm ra làm, chơi ra chơi. Cũng có thể là kỳ ấy mới vào trường nên vẫn còn ngần ngại lúng túng làm quen dần với hệ thống và cả những trường hợp cá biệt ngoài hệ thống, như thằng nhóc năm nhất sơ trung bé như cái kẹo gần như bị nghiến nát giữa đám thanh niên, ngồi ngay dãy đầu giảng đường vào mỗi chiều thứ Năm, lại còn rất hay hỏi mấy câu cực kỳ chi li soi mói, để đánh giá sai số thuật toán này mình dùng chuẩn bình phương trung bình căn bậc hai thay vì chuẩn Euclid có khác biệt gì không bởi vì em có thử áp dụng cả hai rồi và thấy kết quả cũng na ná nhau, có công thức nào để tính được một bước đầu tối ưu cho thuật toán này hay không hay chọn ngẫu nhiên cũng được, trong ví dụ thầy vừa cho mình có thể sử dụng đa thức trực giao làm cơ sở như đa thức Chebyshev hay đa thức Legendre được không hay thuật toán này chỉ dùng được cho cơ sở đơn thức.
Kurata có gợi Tobio nhớ đến mẹ tương đối nhiều—bản thân sinh viên trong trường cuối kỳ cũng có nhận xét như thế—, nhưng cũng có kha khá điểm khác biệt: có lẽ bởi vì thầy trẻ hơn, dành nguyên tuổi thanh xuân dùi mài kinh sử trong môi trường sư phạm học thuật mà không có quá góc cạnh sắc sảo quá đỗi thành ra có phần ảm đạm mệt mỏi như mẹ; hắn thường xuyên ngắt mạch bài giảng mà hỏi mấy câu ất ơ như thế thầy không những không phiền lòng—không như Ichijou—mà thậm chí còn sáng hết cả mắt lên, giải thích tường tận hai chuẩn có họ có hàng với nhau nhưng thực chất khác nhau ra sao và phục vụ mục đích khác nhau như thế nào, có những thuật toán tính bước đầu tối ưu từ rất cơ bản cho đến một ngàn, một ngàn rưỡi dòng code ra sao, lấy ví dụ bài toán xấp xỉ các hàm mục tiêu phi tuyến tính phức tạp nhằm đơn giản hóa các phép tính có thể lợi dụng tính trực giao của đa thức Chebyshev hoặc Legendre kiểu gì.
Đến cuối kỳ Tobio không cần phải nhờ mẹ xin đề về nhà làm. Kurata gọi hắn thẳng đến phòng máy, bảo hắn khởi động một cái lên, đưa hắn tờ đề và cho hắn đúng hạn một tiếng rưỡi làm bài không khác gì các anh chị lớn, ông giáo ngồi ngay bên cạnh vừa trông coi vừa tranh thủ giải quyết nốt mấy việc hành chính, trả lời thư từ và kiểm tra lại dữ liệu nghiên cứu. Đề thi của Kurata thực ra không hề dễ—thành phần ngán lập trình thậm chí sẽ còn kêu trời kêu đất hơn cả lúc thi dưới trướng Ichijou—, hắn đang làm dở câu cuối cùng thì hết giờ, không làm gì được chỉ có thể ngậm ngùi lưu lại chương trình nhét vào thư mục được chỉ định sẵn.
—Chí ít thì dự định của hắn là như thế.
Tiếng bánh xe lăn trên sàn đá kêu lọc xọc khi Kurata kéo ghế tiến lại gần.
"Mở lại bài cuối cùng của trò cho thầy coi." Thầy nheo mắt đảo qua những dòng code một lượt, trầm ngâm mím môi. "Chạy thử xem nào."
Tobio vâng lời nhấn tổ hợp Alt Ctrl F5. Chương trình chạy được, tính toán đưa ra kết quả đàng hoàng—chỉ là kết quả sai lè: giá trị tính được lệch giá trị thực tế cả dặm và hắn mất mười lăm phút loay hoay không hiểu vì sao thuật toán chỉ chạy đúng một vòng lặp.
Chân mày Kurata chau lại dữ hơn nữa cho thấy thầy cũng đang không hiểu vấn đề nằm ở đâu. Hai thầy trò cùng nhau nhìn chằm chằm màn hình năm phút đọc từng ký tự, từng câu lệnh, từng điều kiện, từng cú pháp—
Kurata bất chợt cầm lấy chuột di về phía lệnh return, kéo bớt thụt lề một nấc.
Kết quả hiển thị trên màn hình: 4.85180935e 08. So sánh với kết quả chính xác 4.85165195e 08 sai lệch 3.212198510296368e-05. Nằm trong khuôn khổ atol=1e-8 và rtol=1e-4 đã đặt sẵn.
Tobio thiếu điều rên rỉ một tiếng dài ai oán, cúi xuống chôn mặt vào tay che cái mặt đang dần nóng đỏ lên có thể chiên chín trứng được, chưa bao giờ muốn có một cái lỗ thật to xuất hiện trên sàn để hắn chui xuống trốn như lúc này.
Hắn cảm nhận bàn tay ông giáo vỗ vai hắn an ủi.
"Có sao đâu," giọng Kurata run rẩy vang lên, rõ ràng là đang cố nén cười. "Ai mà chẳng có lúc nhầm nhọt."
"Nhầm nhọt có khi đi tong luôn cả chương trình đấy thầy." Như trường hợp này của hắn chẳng hạn. Đây lại còn là bài nhiều điểm nhất nữa chứ.
"Thuật toán của em vẫn được áp dụng đúng mà," Kurata ôn hòa bảo. "Thầy vẫn sẽ cho em toàn bộ điểm bài này."
Nghe vậy Tobio lập tức ngóc đầu dậy, tròn xoe mắt ngó ông thầy. "Thật ạ?"
Giáo sư trẻ gật đầu xác nhận. "Đấy chỉ là một lỗi cú pháp nhỏ, dễ tìm dễ sửa. Bản thân thầy cũng thỉnh thoảng thụt lề thừa hoặc thiếu. Đây là một trong những đặc điểm thầy không bao giờ ưa nổi trong cú pháp của Python." Thầy mỉm cười với hắn. Nụ cười êm dịu trên môi thầy làm hắn nhớ đến nụ cười của ba mỗi khi hắn cuối cùng cũng phát âm rành rọt được một cụm từ khó trong tiếng mẹ đẻ của ba, làm hắn nhớ đến nụ cười của mẹ khi chấm xong bài kiểm tra đại số tuyến tính đầu tiên trong đời của hắn, làm hắn nhớ đến nụ cười của ông ngoại khi hay tin hắn được chọn làm chuyền hai chính thức của Kitaichi, khi hắn dẫn dắt đội bóng đến chiến thắng đầu tiên của mùa giải, chiến thắng đầu tiên châm ngòi cho một mùa giải rực rỡ như pháo hoa đêm Tất niên. "Dù sao đi chăng nữa, mục tiêu của bài kiểm tra là xem em hiểu những gì được dạy trong kỳ vừa rồi và có thể áp dụng chúng ra sao." Thầy lấy phần bài thi trên giấy của Tobio bỏ vào bao đựng tài liệu trong khi Tobio nhấn Ctrl S, kiểm tra lại tất cả các thành phần đã được lưu trữ đàng hoàng trong thư mục rồi mới đăng xuất. "Và theo như thầy thấy là em làm khá tốt—ít nhất là về mảng lập trình."
"Trong quá trình học giáo sư Ichijou cũng có cho làm bài tập bằng MATLAB, nhưng đến khi thì một nửa làm trên giấy nữa chứ không lập trình từ đầu chí cuối thế này," Tobio kể lại. Sự thật là sinh viên toán không phải đứa nào cũng giỏi lập trình; vẫn có câu đùa là những thằng nào giỏi toán nhưng không học được tin mới chui vào cái ngành này; đại đa số sinh viên ngành chọn đi theo hướng kinh tế hơn là kỹ thuật. Bản thân mẹ cũng không phải là quá thông thạo tin học, chủ yếu sử dụng phần mềm đã được phát triển sẵn.
"Thầy cũng có nghe." Kurata ngâm nga. "Em học lập trình từ khi nào vậy?"
Tobio chau mày. "Chắc tầm năm, sáu tuổi gì đấy?" Hồi đấy hắn bị viêm họng liên cầu khuẩn, biến chứng trở nặng đến mức phải nhập viện và chết dí trong đó gần hai tháng, mệt thì có mệt, êm ẩm toàn thân 24/24, đau đầu nôn nao cũng rất khó chịu, nhưng khó chịu nhất vẫn là chán, ngày qua ngày bao bọc bởi bốn bức tường trắng toát, trong không gian nồng nặc mùi thuốc khử trùng và những tiếng bíp bíp bíp của điện tâm đồ văng vẳng bên tai bởi vì với những phát hiện mới về thể trạng tréo ngoe của hắn thì cẩn tắc vô áy náy. Ba mẹ thương tình mua cho hắn một cái laptop để hắn nghịch cho khuây khỏa.
Kurata phì cười. "Thảo nào."
Tobio nhún vai. "Dù sao thì em cũng không có để ý đến nó nhiều cho lắm cho tới dạo gần đây," hắn thừa nhận, chống tay xuống ghế đung đưa chân qua lại, ít nhiều ấm ức. "Mẹ em bảo là phải học và hiểu lý thuyết trước cái đã, rồi mới được nhờ máy tính làm hộ."
"Mẹ em nói đúng đấy, Tobio-kun," Kurata hiển nhiên là sẽ đồng tình với tiền bối trong ngành. Thầy đánh nhịp tay lên mặt bàn, trầm ngâm cân nhắc điều gì đấy lung lắm.
Thế rồi:
"Em đã bao giờ nghe về hai hằng số Feigenbaum chưa?"
Hắn chớp chớp mắt, có chút bối rối với sự bẻ lái đột ngột này.
"Đấy chẳng phải là dự án nghiên cứu của giáo sư Ichijou sao?" Đấy là lý do chính vì sao kỳ này ông già không dạy lớp nào cả. Nghe đâu như Kurata cũng có giúp ổng một tay. Dù sao thì phương pháp số áp dụng cho hệ thống phức tạp cũng là chuyên môn của thầy.
"Ừ." Kurata đưa tay lên đẩy cặp kính cận ngay ngắn lại trên sống mũi. "Nhưng em có biết chúng đích xác là gì không?"
Tobio chầm chậm lắc đầu, gượng gạo hơi cúi đầu xuống. Tiểu học và sơ trung tung hô hắn là thủ khoa toán, là thiên tài toán, nhưng đến khi về nhà nói chuyện với mẹ, đến khi lên giảng đường đại học, tiếp xúc với các giáo sư toán và một vài sinh viên quái kiệt hắn đúng vẫn chỉ là một thằng nhóc mười hai tuổi bé nhỏ non nớt nông cạn. Càng học toán hắn càng thấm thía cái sự khổng lồ vĩ đại của bộ môn này, rằng những gì hắn đã học, đã biết chỉ là bề nổi của tảng băng.
Chí ít hắn cũng nên nêu lên những gì hắn có biết: "Em chỉ biết nó có liên quan đến sơ đồ phân nhánh của ánh xạ phi tuyến tính." Lý thuyết phân nhánh thuộc phạm trù lý thuyết hỗn loạn và hệ thống phi tuyến tính và kiến thức của hắn về mảng này thật sự rất nghèo nàn—ít nhất là ở thời điểm hiện tại. Hắn thậm chí còn chưa ngồi hết tất cả các lớp có trong chương trình hệ cử nhân chứ còn chưa nói gì đến hệ thạc sĩ và chủ đề này là dự án nghiên cứu cả đời của một giáo sư đã có thâm niên nửa thập kỷ trong ngành.
"Vậy em biết sơ đồ phân nhánh là gì," Kurata nói.
Tobio gật đầu. "Vâng. Sơ đồ ánh xạ logistic phân nhánh ở một số giá trị tham số nhất định, dẫn đến hỗn loạn." Hắn biết về cái này thông qua nghiên cứu tìm hiệu cho một dự án cá nhân nho nhỏ về tập hợp Mandelbrot hồi hè. Biểu đồ phân nhánh của ánh xạ logistic tương ứng với một lát cắt của tập Mandelbrot dọc theo trục thực; nếu kiểm tra tập Mandelbrot và tập trung vào các giá trị thực của c mày sẽ thấy một mô hình tương tự về sự nhân đôi chu kỳ và hành vi hỗn loạn như sơ đồ phân nhánh. Về cơ bản, các phân nhánh của sơ đồ ánh xạ logistic là một mặt cắt trục thực phản ánh động lực của tập Mandelbrot. Tập Mandelbrot ở 2D trông cũng có đẹp, cơ mà ở 3D phải gọi là siêu thực. "Em có để ý là các điểm phân nhánh ngày càng xuất hiện gần nhau hơn." Cũng ngờ ngợ rằng có hay chăng tỷ lệ giới hạn sẽ hội tụ về một giá trị cụ thể nào đấy, cơ mà chưa thực sự đi đào sâu tính toán chính xác ra sao—đợt ấy hắn cũng còn đang quằn quại với phương trình vi phân thường nữa.
Kurata có vẻ gì là thất vọng trước cái vốn hiểu biết hạn hẹp về lý thuyết hỗn loạn của hắn hết—ngược lại hoàn toàn là đằng khác: thầy thậm chí còn gật gù hài lòng.
"Chuyện như thế này:
Khoảng chừng năm 1975, một nhà toán vật lý người Mỹ tên Mitchell Feigenbaum bắt tay vào nghiên cứu về sự nhân đôi chu kỳ trong ánh xạ logistic. Đầu tiên, ông phát triển một 'lý thuyết hàm sinh' phức tạp—và hiện đã bị lãng quên—để dự đoán r_n, giá trị của r tại đó chu kỳ 2^n lần đầu tiên xuất hiện. Để kiểm tra lý thuyết của mình bằng số và không thành thạo với máy tính lớn cho lắm, ông đã lập trình máy tính cầm tay của mình để tính toán một số r_n đầu tiên. Khi máy tính chạy, Feigenbaum có thời gian để đoán nơi phân nhánh tiếp theo sẽ xảy ra. Ông nhận thấy một quy tắc đơn giản: r_n hội tụ cấp số nhân, với khoảng cách giữa các lần chuyển tiếp liên tiếp giảm theo hệ số hằng số khoảng 4,669.
Feigenbaum loay hoay một thời gian, cố gắng điều chỉnh giá trị này với một hằng số toán học đã biết. Kết quả không được khả quan cho lắm, chỉ tổ khiến con số này thêm đáng nhớ trong tâm trí ổng. Đến lúc này ổng chợt nhớ đến một nghiên cứu của Paul Stein, rằng sự nhân đôi chu kỳ không phải là một tính chất duy nhất của một ánh xạ bậc hai mà cũng xảy ra trong một ánh xạ khác như x_{n 1} = r*sin (x_n). Chỉ là lý thuyết hàm sinh của Feigenbaum dựa nhiều vào thực tế là tính phi tuyến tính chỉ đơn giản là bậc hai chứ không phải siêu việt. Chừng một tháng sau, ổng quyết định tính r_n trong trường hợp siêu việt sử dụng phương pháp số. Bài toán này thậm chí còn hội tụ chậm chạp so với bài toán bậc hai. Một lần nữa, rõ ràng là r_n hội tụ cấp số nhân và hoàn toàn đáng kinh ngạc, tốc độ hội tụ giống với 4,669, đúng chóc kết quả ông có được ban đầu.
Trên thực tế, chính tỷ lệ hội tụ này xuất hiện cho dù ánh xạ một mốt nào được lặp lại đi chăng nữa. δ xấp xỉ 4,699 trở thành một hằng số toán học mới, giờ mang tên hằng số Feigenbaum đầu tiên, cơ bản đối với quá trình nhân đôi chu kỳ như pi với đường tròn vậy.***"
Tobio ngẫm nghĩ một chút.
"Nói tổng quát, δ cho biết khoảng cách giữa các điểm phân nhánh liên tiếp co lại nhanh như thế nào khi hệ thống tiến gần đến hỗn loạn," hắn kết luận.
Kurata gật đầu. "Đúng."
Nếu lấy tỷ lệ khoảng cách giữa các điểm phân nhánh liên tiếp trong không gian tham số, nó sẽ hội tụ về xấp xỉ 4,699. Trong trường hợp của tập Mandelbrot cho đa thức bậc hai phức f(z) = z^2 c, δ là tỷ số giới hạn giữa đường kính của các đường tròn liên tiếp trên trục thực trong mặt phẳng phức.
"Còn hằng số thứ hai thì sao ạ?" hắn hỏi tiếp.
Tới đây, Kurata đảo qua mớ giấy tờ trên bàn, kiếm được một tờ mặt sau còn trống mà thầy không cần đến nữa, kèm theo một cây bút, vẽ nhanh một sơ đồ phân nhánh đơn giản cho ánh xạ logistic x_{n 1} = r*x_n*(1 - x_n) là ví dụ điển hình, trục ngang đề r, trục dọc đề x.
"Cũng có tồn tại một tỷ lệ phổ quát theo hướng x. Khó có thể xác định chính xác vì các chĩa ba có độ rộng khác nhau—" thầy lấy đuôi bút vạch theo đường phân nhánh, "—ngay cả ở cùng một giá trị r. Để tính đến sự không đồng nhất này, chúng ta định nghĩa thang đo x chuẩn như sau: Giả sử x_m biểu thị giá trị lớn nhất của f và d_n biểu thị khoảng cách từ x_m đến điểm gần nhất trong chu trình 2^n." Thầy viết các tham số vừa liệt kê bên dưới đồ thị, vừa viết vừa tiếp tục câu chuyện, "Khi n tiến về vô cực chúng ta sẽ có một tỷ lệ giới hạn mới d_n/d_{n 1} = α xấp xỉ -2,5029, không phụ thuộc vào dạng chính xác của f. Ở đây, dấu âm chỉ ra rằng điểm gần nhất trong chu kỳ 2^n lần lượt nằm trên và dưới x^m. Do đó, d_n lần lượt dương và âm, α xấp xỉ ±2,5029.***"
"Tức là α cho biết kích thước của các khoảng này giảm theo cấp số nhân như thế nào khi hệ thống tiến triển qua lộ trình nhân đôi chu kỳ đến hỗn loạn," Tobio rút ra. "Nói ngắn gọn, nó thể hiện biên độ dao động sau mỗi lần phân nhánh."
"Đúng rồi. Nhiều bộ dao động vật lý, chẳng hạn như mạch điện tử, laser hoặc thậm chí con lắc có giảm chấn phi tuyến tính, thể hiện quá trình chuyển đổi sang hỗn loạn. Bằng cách phân tích các thay đổi biên độ thông qua các điểm phân nhánh, người ta có thể sử dụng α để dự đoán sự khởi đầu và bản chất của hành vi hỗn loạn."
Kurata ngả người ra sau tựa lưng vào ghế, để cho Tobio cầm lấy tờ giấy lên quan sát và chiêm nghiệm một hồi thật đã, thật thấm.
"Hai hằng số này áp dụng cho mọi hệ thống phi tuyến tính, miễn là hệ thống biểu hiện sự phân nhánh nhân đôi chu kỳ?" hắn hỏi thêm.
"Nếu bản đồ Lorenz của hệ thống gần như một chiều và đơn phương thức, thì đúng," Kurata nhận định. "Em biết hệ thống Lorenz là gì chứ?"
Tobio gật đầu. "Biết ạ." Một trong số những bài tập thực nghiệm lập trình của Kurata kỳ vừa rồi có yêu cầu sử dụng animation để mô phỏng một hệ thống lò xo, hắn có táy máy nghịch thêm với một số hệ thống phức tạp hơn nữa, trong đấy có bao gồm mô phỏng hệ thống Lorenz với giá trị ρ = 28, σ = 10 và β = 8/3 vẽ ra hình cánh bướm.
Hệ thống Lorenz là một hệ gồm ba phương trình vi phân thường, trông thì tương đối đơn giản nhưng với một vài tham số và giá trị ban đầu nhất định lại đưa ra kết quả hỗn loạn. Tập hợp những giá trị hỗn loạn này, hệ hấp dẫn Lorenz, chính là nguồn cội cho thuật ngữ "hiệu ứng cánh bướm", một cái đập cánh của con bướm nhỏ bé có thể gây ra sự thay đổi dù rất nhỏ trong điều kiện gốc của hệ vật lý dẫn đến hậu quả là những thay đổi rất lớn về thời tiết ví dụ như cơn lốc tại một địa điểm cách nơi con bướm đập cách hàng vạn cây số.
Cũng chính vì thế mà, "Em không nghĩ hệ thống Lorenz là một ví dụ tốt cho hành vi hỗn loạn thông qua nhân đôi chu kỳ," hắn thận trọng đề ra. "Hệ thống thể hiện sự phụ thuộc nhạy cảm vào các điều kiện ban đầu và các điểm hấp dẫn lạ. Mặc dù có sự phân nhánh, hệ thống Lorenz thường chuyển sang trạng thái hỗn loạn thông qua một lộ trình khác với sự nhân đôi chu kỳ, bao gồm các tương tác phức tạp giữa các điểm cố định và quỹ đạo tuần hoàn."
Kurata mỉm cười. "Quan sát tốt lắm. Để bản đồ Lorenz gần như một chiều, lực hấp dẫn lạ phải rất phẳng, tức là chỉ hơn hai chiều một chút. Điều này đòi hỏi hệ thống phải có khả năng tiêu tán cao; chỉ có hai hoặc ba bậc tự do thực sự hoạt động, và phần còn lại tuân theo một cách máy móc. Ấy cũng là một lý do khác khiến Libchaber áp dụng từ trường cho quan sát thực nghiệm đầu tiên về chuỗi phân nhánh dẫn đến sự hỗn loạn và nhiễu loạn trong hệ thống Rayleigh–Bénard đối lưu; nó làm tăng lực cản trong hệ thống, và do đó biệt đãi một loại hỗn loạn có chiều thấp***."
Tobio âm thầm thêm cái tên Libchaber và hệ thống Rayleigh-Bénard vào trong danh mục thử nghiệm; tò mò xin thêm mẫu hàng, "Thầy nghĩ hệ thống nào sẽ là ví dụ hợp lý hơn?"
Kurata nghiêng đầu cân nhắc một chút, để mấy lọn tóc xoăn hơi bù xù đổ lệch sang một bên. "Hệ Rössler chẳng hạn. Cũng gồm ba phương trình vi phân như hệ Lorenz, chỉ có đúng một thành phần phi tuyến tính. Em cũng có thể xem qua các hệ dao động như mô hình Van der Pol hay mô hình FitzHugh-Nagumo là phiên bản đơn giản hóa của mô hình Hodgkin-Huxley."
Tobio gật đầu. Hắn sẽ về thử thêm với các ánh xạ, các hệ thống phi tuyến tính khác nữa; nếu như chúng cũng cho ra những con số này, δ xấp xỉ 4,699 và α xấp xỉ ±2,5029, có thể nói rằng hằng số Feigenbaum trong lý thuyết phân nhánh cũng tương tự như π trong hình học và hằng số Euler e trong giải tích.
"Thế nào?" Kurata hỏi, cặp mắt lục vàng hấp háy sau cặp kính cận như mắt mèo. "Có hứng thú chứ?"
Thành thật mà nói thì vật lý không phải thế mạnh của Tobio; nhờ học lớp của Kurata có mô hình hóa nhiều hiện tượng vật lý và biểu diễn chúng dưới dạng công thức toán học gọn gàng thuận mắt mà hắn có đỡ ái ngại hơn một chút—nhờ thế hắn mới ngộ ra là hắn không thể tiêu hóa lý theo kiểu lý, nhưng tiêu hóa lý dưới dạng toán thì ngon lành. Thậm chí còn có thấy nó hay hay. Rằng ngay cả những hệ thống phức tạp như dao động của một con lắc, chuyển động của chất lưu hay sự phân tán nhiệt trong một khối chất rắn cũng có thể được mô tả bằng một công thức, một phương trình ngắn gọn xúc tích rất tinh tế.
(Đây là một trong những lý do Tobio thực sự rất rất rất yêu môn toán.)
Thế nên hắn không ngần ngừ gật mấy cái. "Dạ có."
"Thế em có muốn tham gia nghiên cứu không?"
Hắn chớp chớp mắt.
"Ý thầy là làm phụ tá cho thầy và giáo sư Ichijou ấy ạ?" hắn hỏi lại cho chắc ăn.
Tiếng "Ừ," xác nhận của Kurata đáp lại nhẹ bâng như không.
Hắn hơi nhíu mày. Đành rằng so sánh với các ngành khoa học kỹ thuật khác thì tổ toán của Đại học Tohoku hơi neo người, nhưng đâu đến nỗi phải đi hỏi một thằng oắt con như thế này. "Hai thầy không tìm được sinh viên nào giúp hay sao ạ?"
"Thầy là hỗ trợ đây." Kurata thở dài, giơ một tay lên điểm danh. "Thuật toán dành cho hằng số Feigenbaum thực ra không có gì quá phức tạp, đều là những cái thầy tin là em đã học, đã biết rồi. Thầy nghĩ đây đơn thuần là một cơ hội hoàn hảo để em áp dụng những kiến thức ấy."
Tobio không thể phủ nhận được điều đó.
Ừ thì từ hồi nào tới giờ hắn vẫn hiếu kỳ tự mần mò nghịch ngợm đủ thứ—thẳng thắn ra mà nói thì nguyên cái sự nghiệp toán học của hắn là do hiếu kỳ và rảnh rỗi sinh nông nổi.
Nhưng.
Một nghiên cứu đàng hoàng. Có sử dụng phương pháp số.
Cơ hội này đúng là hoàn hảo thật, chỉ là có một cái bất cập không hề nhỏ là: "Giáo sư Ichijou khó tính lắm," hắn lí nhí. Mẹ kể rằng hồi bé hắn cứ thấy ông giáo già là núp sau lưng mẹ. Sáu năm trôi qua và hắn vẫn e dè giảng viên đáng sợ nhất ngành—đáng sợ nhất trường—như ngày đầu. Hắn không phải là người duy nhất, sinh viên cuối kỳ chuẩn bị ra trường vẫn e dè Ichijou như ngày đầu, nhất là khi bô lão là chướng ngại vật cuối cùng cần vượt qua để mày lấy được tấm bằng cử nhân—ít nhất là cho đến kỳ trước đấy.
Quan ngại của hắn cực kỳ chính đáng.
Ấy thế mà không hiểu thế quái nào Kurata lại bật cười. Làm hắn không khỏi chau mày dữ hơn nữa. Làm ông thầy lại càng toe toét hơn. Chẳng cứ gì mà mặc cho khoảng cách chênh lệch tuổi tác mười năm và chuyên môn thuộc hai phạm trù khác nhau nhưng mẹ và Kurata lại làm thân với nhau nhanh đến thế, mới làm việc cùng trường được một kỳ mà cảm tưởng như là đã quen biết nhau từ thời sinh viên. Kurata huyết thống thì là người Nhật trăm phần trăm, chỉ là sinh ra lớn lên ở Đức, lấy bằng cử nhân ở Đức, bằng thạc sĩ và tiến sĩ mới làm ở Nhật, ở Toudai; quá nửa số cuộc bàn luận chuyên ngành của mẹ và Kurata là bằng tiếng Đức. Kurata tiếng Nhật rất thuần thục cơ mà nói chuyện tiếng Đức hiển nhiên là vẫn thoải mái cởi mở hơn vì đấy chính xác mới là tiếng mẹ đẻ của thầy, thành thử ra tiếp xúc với những người có thể đàm thoại bằng tiếng Đức cùng vẫn có gì đấy phóng khoáng tự nhiên hơn hẳn.
"Em có biết là đích thân giáo sư Ichijou nhắc đến em không?" thầy vui vẻ bảo.
Tobio tròn mắt.
"Thật ạ?"
"Thật chứ sao không," Kurata nhướng mày. "Thầy có nói điêu với em bao giờ chưa?"
Bảo hắn sốc không nhặt nổi cằm vẫn còn là nói giảm nói tránh.
Giáo sư Tiến sĩ Ichijou Nobuyuki tính tình lập dị gàn dở cả cái trường này ai cũng biết; hắn hồi nhỏ dù có bám mẹ cũng không phải là nghịch ngợm quấy phá gì, tuy nhiên ông già cứ thấy mặt hắn là lườm, trông không khác gì ông ba bị—ám ảnh tụi sinh viên không khác gì ông ba bị—đây là trường đại học, không phải nhà trẻ. Hồi học Giải tích Số 1 và 2 dưới trướng Ichijou hắn bao giờ cũng ngồi ở một góc khuất—nhưng đủ gần để nhìn được bảng; được cái chữ viết tay của Ichijou rất to, rất nắn nót dễ nhìn—không dám ho he mở miệng câu nào, ông giáo già không tống cổ hắn ra khỏi giảng đường đã là phước lắm rồi. Cuối kỳ hắn nhờ mấy anh chị cùng lớp lấy hộ đề thi, coi như trả công hắn nguyên kỳ vừa rồi làm bài tập về nhà hộ. Đề thi của Ichijou thì khó, cực kỳ khó, học vẹt công thức và cày bài tập thôi không đủ, mày phải thật sự hiểu cốt lõi vấn đề mới làm được. Nhờ ơn Ichijou mà hắn có con 75% và 81% môn toán đầu tiên trong đời.
Và Kurata đang nói rằng bô lão nghiêm khắc khó tính như ma muốn thu nạp hắn làm phụ tá cho một dự án nghiên cứu.
"Hồi mới vào trường giáo sư Ichijou cũng có dặn trước với thầy," Kurata điềm đạm kể, "rằng nếu như có một thằng nhóc sơ trung mò đến thì cứ để nó ngồi nghe giảng, nó muốn làm bài nộp bài thì cứ chấm chữa cho nó, đến cuối kỳ nó muốn làm bài thi cũng cứ để nó thi. Nó thi có khi điểm còn cao hơn hội sinh viên. Dù sao nó cũng là con trai giáo sư Kageyama, học đại học sáu năm rồi vẫn chưa ra trường nổi." Thầy hơi cong môi ở đoạn này và Tobio cũng không kìm được một tiếng cười khẽ đầy trào phúng. "Thôi cũng chiếu cố cho nó."
Tobio nhắm mắt. Hít một hơi thật sâu. Cố gắng dỗ yên trái tim yếu ớt đang run rẩy trong lồng ngực.
Hắn biết chứ. Hắn hiểu chứ.
Không phải ai cũng có thiên hướng toán bẩm sinh. Không phải ai cũng có mẹ là giáo sư toán. Không phải đứa nào cũng được mẹ thường xuyên mang theo đến nơi công sở từ tấm bé. Không phải chốn công sở nào cũng cho phép một đứa trẻ chạy loăng quăng khắp nơi khắp chốn, thích xem gì thì xem, thích nghe gì thì nghe, thích làm gì thì làm.
Hắn có thể có mặt ở chỗ này, vào thời điểm này, âu cũng là nhờ những người xung quanh chiếu cố. Các đồng nghiệp của mẹ—các giáo sư tiến sĩ máu mặt trong ngành cũng đã nuôi nấng dạy dỗ hắn sáu năm trời nay không thua gì mẹ.
Hắn không thể đòi hỏi gì hơn được nữa.
Hắn đứng dậy, cúi gập người ba mươi độ.
"Cảm ơn thầy," hắn thở ra. Hắn có thể nghe thấy giọng mình run bắn lên. Thế nên hắn lặp lại, rành mạch hơn, chắc chắn hơn—chân thành hơn, "Cảm ơn hai thầy rất nhiều ạ."
"Không có gì," Kurata bảo. Giọng thầy trầm ấm như bàn tay thầy xoa đầu hắn. "Đấy là vinh dự của hai thầy."
Chiều thứ Hai đầu tuần kế tiếp tan học Tobio chạy ngay qua trường đại học. Buổi đầu tiên họ không làm gì hết, nguyên ba tiếng đồng hồ Ichijou thẩm vấn hắn, kiểm tra lại toàn bộ kiến thức đã học từ Giải tích Số 1 và 2, xong chuyển sang hồi quy phi tuyến tính, bài toán giá trị riêng và phương pháp không gian Krylov giải hệ phương trình tiếp tuyến kích thước lớn thuộc đề cương Giải tích Số 3 là môn tự chọn và hắn chưa ngồi môn này, thế nên ông già hạ lệnh kỳ tới phải đến, phải học bài làm bài đàng hoàng, cuối kỳ cũng đến thi cùng với các anh chị lớn luôn, điểm phải trên 85% thì mới được tham gia nghiên cứu. Kỳ ấy hắn học duy nhất môn này, nội dung thực ra không đến mức khó tuy nhiên Ichijou quần hắn lên bờ xuống ruộng, bài tập về nhà của hắn bao giờ cũng có thêm vài ba ý mở rộng, phương pháp lặp tỷ lệ Rayleigh có tốc độ hội tụ ra sao nếu như A là một ma trận đối xứng hay Hermite, để tính toán nhiều hơn một giá trị riêng thuật toán có thể được kết hợp với kỹ thuật giảm phát, sử dụng thuật toán QR ẩn với kỹ thuật giảm phát để đưa ma trận về dạng chuẩn tắc Schur, với thuật toán phân tích giá trị kỳ dị vận dụng xấp xỉ hạng k để nén ảnh, nếu A là một ma trận Hermite thì thuật toán Arnoldi thu gọn về thuật toán Lanczos, GMRES thu gọn về MINRES nếu A đối xứng và CG nếu A đối xứng xác định dương, lý giải tính khả dĩ của thuật toán ILU và phân tích Cholesky bán phần để precondition A trong GMRES và CG. Mấy sinh viên cùng lớp vẫn thường nhìn hắn với ánh mắt ái ngại, thường vỗ vai hắn cảm thương an ủi, nhưng thành thật mà nói thì hắn không phiền. Không phiền một chút nào. Không phải như hắn đã không sẵn biết Ichijou kỳ vọng cao, thậm chí còn khắt khe hơn với hắn bởi hắn là con trai mẹ hắn. Không phải như hắn đã không sẵn tự thân mày mò; một loạt bài tập ông giáo cho thêm chỉ cho hắn cần nhìn về hướng nào, cần đi theo con đường nào. Ichijou dù sao cũng rất cẩn thận tỉ mỉ cung cấp một loạt tài liệu tham khảo cho hắn nghiền ngẫm trên đường đến trường, trong giờ giải lao giữa các tiết học, trong giờ ăn trưa, trong quãng nghỉ ngơi tập bóng chuyền và trong phòng câu lạc bộ giữa những tiếng cười đùa của đồng đội.
Tobio bắt tay vào thiết kế chương trình xử lý dữ liệu và mô phỏng đầu tiên của mình trong lúc ôn thi cho Giải tích Số 3, tìm đến Kurata và Miyazaki Ritsu mỗi khi có vướng mắc bởi vì hắn vẫn sợ Ichijou chết khiếp đi được. Đêm trước hôm thi hắn không chợp mắt được tí nào, trước cửa phòng thi thì ngồi xổm cuộn tròn người lại muốn nôn khan; cho đến khi ngồi vào chỗ, cầm tờ đề thi trước mặt và giọng Ichijou khàn khàn vang lên, bắt đầu làm bài, thì mọi thứ đột nhiên trở nên hợp lý rõ ràng đâu vào đấy. Có ti tỉ giai thoại về con người sụp đổ vỡ vụn dưới căng thẳng lo âu quá độ, dưới áp lực khổng lồ đè nặng sau gáy, đè nặng lên vai cảm giác muốn sụn đốt sống cổ, muốn gãy xương sống. Hắn thì không như thế. Ít nhất không đúng khi thứ đang được kiểm tra, đang được kéo căng không phải là cơ bắp hắn, mà là dây thần kinh hắn. Hoàn toàn ngược lại là đằng khác. Cảm giác tựa hồ mặt trời ló dạng đánh tan sương mù trong tâm trí hắn, ấy là một ngày sáng sủa thanh bạch tuyệt đối và hắn có thể thấy mọi thứ tường minh thấu suốt hơn bao giờ hết và với con đường cần đi lồ lộ trước mắt hắn cứ thế mà tiến về phía trước thôi.
Bài thi trả về, 100% trông lại hắn, đầy hài lòng, đầy kiêu hãnh.
Nửa đầu tiên của năm hai sơ trung, Tobio quan sát và phân tích tốc độ hội tụ, sai số và chi phí tính toán của phương pháp số của Briggs kết hợp với Broadhurst, thử nghiệm một vài giả thuyết điều khiển tối ưu và viết báo cáo cũng như hoàn thiện cái dự án bên lề nho nhỏ của mình. Mùa đông năm Tobio mười bốn tuổi, Kitagawa Daiichi nhận chức vô địch phân khu.
Đấy là năm viên mãn nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của hắn.
.
.
.
Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, Karasuno vẫn tuyệt nhiên tốt với hắn, cho dù hắn không phải là Marcus Aurelius mà là Domitian. Sawamura vẫn đáng sợ. Sugawara vẫn gà mái mẹ. Azumane vẫn là một người khổng lồ dịu dàng. Tanaka và Nishinoya vẫn to mồm xông xáo như khỉ đột. Hinata vẫn chạy thật nhanh, nhảy thật cao mà đập cú chuyền hoàng gia của hắn. Tsukishima vẫn chọc ngoáy hắn.
Trong giấc mơ ấy, Tsukishima vẫn gọi hắn là Vua. Chỉ là không phải Marcus Aurelius, mà là Domitian. Hắn là một vị hoàng đế ngồi trên ngai vàng, bao bọc bởi tường thành cao chót vót của cung điện, không hiểu thế giới bên ngoài bóng chuyền trông ra sao.
Trong giấc mơ ấy, hắn không phải là Marcus Aurelius. Ít nhất không phải là bẩm sinh. Đấy là một cái hắn cần phải học, cần phải bỏ công gắng sức ra mà học. Và nếu như có gì Kageyama Tobio luôn luôn khao khát cháy bỏng, thì đấy là trở thành bản thể tốt nhất mình có thể trở thành, và để đạt được điều đấy, hắn cần phải học, dù hắn có muốn hay không. Những gì hắn cần phải làm để đạt được những gì hắn muốn, hắn sẽ làm. Hắn sẽ làm đàng hoàng.
Thế nên hắn học. Học để qua môn, học để tốt nghiệp cao trung. Học cách hòa thuận, học cách giao tiếp và kết hợp với đồng đội. Học họ thích cái gì, ghét cái gì, mạnh ở điểm nào, yếu ở chỗ nào. Học cách điều chỉnh nhịp độ của bản thân để ăn khớp với nhịp độ của những người xung quanh.
Trong giấc mơ ấy, Kageyama Tobio là Domitian. Ít nhất ban đầu là như thế.
Nhưng hắn có thể Marcus Aurelius. Hắn có thể trở thành Antoninus Pius, trở thành Trajan.
Hắn có thể trở thành vị Hoàng đế anh minh nhất.
.
.
.
Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, hắn được thu nạp vào đội tuyển U19 vào năm cuối cao trung. Năm mười chín tuổi, hắn đến Rio de Janeiro tham dự Olympic. Hắn không phải là chuyền hai chính thức, nhưng cũng được ra sân giao bóng. Cũng ghi được vài điểm cho đội nhà.
Trong giấc mơ ấy, hắn gia nhập Division 1 vào năm mười chín tuổi. Schweiden Adlers trở thành Hoàng đế Sân bóng bất khả chiến bại suốt năm năm liên tiếp.
Trong giấc mơ ấy, Ali Roma của Serie A trải thảm đỏ mời hắn qua Ý, qua chiến trường Châu Âu.
Trong giấc mơ ấy, Kageyama Tobio tham dự Olympic ba lần.
Trong giấc mơ ấy, Kageyama Tobio là Đế vương Sân bóng thực thụ. Trong giấc mơ ấy, bóng chuyền là thánh địa của hắn, là máu huyết sinh lực của hắn. Là cả thế giới của hắn.
Trong giấc mơ ấy, Kageyama Tobio giỏi bóng chuyền. Trong giấc mơ ấy, Kageyama Tobio yêu bóng chuyền hơn bất cứ điều gì khác và bóng chuyền cũng tốt với hắn nhiều tương đương.
Âu cũng là công bằng.
.
.
.
Có điều, đến cuối ngày, ấy cũng chỉ là một giấc mơ.
.
.
.
Con quỷ sâu trong tiềm thức hắn cười khành khạch.
.
.
.
Đấy có thực sự là thứ mày muốn không?
.
.
.
Trên chuyến tàu điện về nhà, Tobio giở máy tính ra lục lọi lại mấy chương trình cũ là bài tập môn Giải tích Số 3 hắn làm từ hồi năm hai sơ trung. Hắn vốn dĩ không thích việc đánh máy viết lách hay chạy số trên tàu cho lắm, bởi vì tàu đi chòng chành lắc lư làm hắn dễ hoa mắt chóng mặt, cơ mà cái ý tưởng đột nhiên nảy ra trong đầu này thật sự không cưỡng lại được, hắn ngứa tay buồn đầu quá phải kiểm tra lại luôn.
Như thường lệ, Tsukishima thấy hắn táy máy lại tò mò nghiêng đầu qua nhòm ngó. "Cái gì vậy?"
"Giải hệ phương trình lớn," Tobio đáp gọn lỏn.
"Lớn cỡ nào?"
"Cỡ 1000 nhân 1000 trở lên."
Không cần phải quay qua nhìn Tobio cũng có thể tưởng tượng được cái mặt nhăn nhó như khỉ đột của thằng bạn. Hắn sẽ không ngạc nhiên nếu như y quyết định từ bỏ. Thông thường thì cuộc đối thoại giữa hắn và đám bạn sẽ dừng lại ở đây, một khi chúng nó nhận ra rằng hắn lại đang hí hoáy giải quyết một bài toán cao siêu khổng lồ gì đấy quá tầm hiểu biết của chúng và để hắn tiếp tục làm việc trong bình an.
Thông thường thì cuộc đối thoại giữa hắn và Tsukishima cũng sẽ chấm dứt ở đây. Có thể y sẽ quẳng mấy câu kháy đểu cười cợt sự mọt toán của hắn nữa, tuy nhiên rồi y cũng để hắn yên.
Bữa nay không phải là một ngày bình yên.
"Giải nó kiểu gì?"
"Quy nó về một bài toán giá trị riêng."
"Và đấy là...?"
Tới giờ Tobio mới quyết định nhấc mắt khỏi màn hình máy tính mà trông qua ngó chòng chọc Tsukishima. Thiếu gia ngạo kiều coi trời bằng vung bị hắn săm soi cũng rất điềm nhiên trông thẳng lại, cặp tai nghe ốp treo lủng lẳng quanh cổ, mắt hổ phách to tròn trong veo sau cặp kính cận và đầu hơi nghiêng trông như một con mèo hiếu kỳ đang dõi theo đàn chim bồ câu bên ngoài cửa sổ.
Tobio nhắm mắt, trút ra một tiếng thở dài. Có vẻ như việc triển khai ý tưởng mới phải đợi rồi.
"Cậu biết ma trận là gì rồi chứ?" hắn hỏi. Để xem nên bắt đầu giải thích từ đâu.
Tsukishima gật đầu. "Là một bảng số hình chữ nhật—hoặc vuông, trong trường hợp số hàng và số cột bằng nhau—được sắp xếp theo hàng và cột. Như bảng tính trong Excel." Y ngừng lại, trầm ngâm ngẫm thêm một chút. "Tôi có để ý cậu hay viết như vậy khi muốn ghi nhanh hệ phương trình—nó chứa tất cả các hệ số của x và cậu sẽ dồn tất cả các ẩn lại theo hàng dọc thành một cái trông giống như vector."
Ừ thì cách viết này đúng là tiện, Tobio học toán cao cấp lâu thành ra quen viết kiểu ấy rồi. Chỉ là có hơi bất cập khi phụ đạo cho đám bạn, mấy đứa sẽ ngó chòng chọc không hiểu hắn vừa viết cái quần gì và tại sao hắn lại viết như thế. Tsukishima là người đầu tiên nhận ra quy luật trong phương pháp dẫn đến điên rồ của hắn. Y cận lòi mò mẫm trong bóng tối mù mờ thế quái nào mà vẫn tìm ra được hướng đi đúng.
"Quan sát tốt đấy," Tobio không thể không thể không trầm trồ. "Hệ phương trình tuyến tính có thể được biểu diễn dưới dạng phép nhân ma trận-vector." Đành rằng hắn vẫn biết Tsukishima cực kỳ thông minh, là một trong những cái thằng đồng trang lứa thông minh nhất mà hắn biết, cơ mà đến độ này thì đúng là ngoài sức tưởng tượng.
Đáng ra đến giờ hắn chẳng thể ngạc nhiên được nữa. Tsukishima từ hồi nào tới giờ vẫn có xu hướng vượt lên khỏi mọi kỳ vọng tưởng chừng như là hoang đường nhất của hắn.
Câu hỏi tiếp theo: "Tích số thuộc thể loại đối tượng toán học nào?"
Chân mày Tsukishima nhíu lại. Kể ra cũng hơi khó giải thích toán trừu tượng mà không có giấy bút ở đây, buộc người ta phải động não hình dung, cơ mà cái kiểu chau mày này là kiểu thường trồi lên mỗi khi y suy nghĩ thứ gì đấy lung lắm, sâu xa lắm, sâu xa đến độ não bổ phiền muộn không cần thiết.
Tobio nhanh chóng thu hẹp phạm vi lại ngay và luôn trước khi thằng kia lưu lạc đến nơi xa xôi nào quá không quay về được, "Không cần phức tạp hóa vấn đề quá đâu. Vế bên phải hệ trông giống cái gì?"
Tsukishima vẫn thận trọng cân nhắc thêm một chút nữa, trước khi ngần ngừ đưa ra câu trả lời, "... Một vector?"
Tobio gật đầu một cái hài lòng, "Đúng rồi," khóe môi không nhịn được mà hơi cong lên, nửa ngán ngẩm nửa trào phúng trước vẻ nhẹ nhõm mừng húm vì đã trả lời chính xác thấy rõ ra mặt dù chỉ là trong khoảnh khắc của thiếu gia khắc kỷ, khắc kỷ cả với chính bản thân mình. "Khi cậu nhân một ma trận với một vector, về cơ bản thì cậu đang biến đổi vector ấy theo một cách nhất định—kéo dài nó, xoay chiều nó, hoặc cả hai."
"Vậy ma trận là một cách thuận tiện để mô tả một phép biến đổi," Tsukishima rút ra.
Đúng, cơ mà không đúng hoàn toàn. Chính xác hơn thì sẽ phải là, "Một phép biến đổi tuyến tính," Tobio tinh chỉnh lại.
"'Tuyến tính'?"
"Cậu có để ý tại sao nó lại được gọi là 'hệ phương trình tuyến tính' không?"
Tsukishima ngẫm một chút.
"Bởi vì tất cả mọi phương trình trong hệ đều tuyến tính?" y nói, có tự tin vào câu trả lời lần này của mình hơn chút đỉnh. "Kiểu, mỗi cái đều mô tả một đường thẳng—ít nhất là trong trường hợp hai ẩn. Ba ẩn thì đấy là một phương trình mặt phẳng." Tới đây hai mắt y bất chợt giãn rộng đầy giác ngộ, "Số lượng ẩn trong phương trình là số chiều của không gian có chứa những 'mặt phẳng' ấy—cậu gọi một 'mặt phẳng' như vậy trong hệ không gian bốn chiều là gì?"
"Một hyperplane ba chiều—một không gian con ba chiều," Tobio đưa ra lời giải đáp ngắn gọn xúc tích.
Tsukishima nhướng mày. "Không có cái tên nào cụ thể hơn à?"
Tobio đảo mắt. "Mình là sinh vật ba chiều tồn tại trong một không gian ba chiều thôi, thưa thiếu gia." Ít nhất là về mặt vật lý. Về mặt tâm hồn thì không nhất thiết, có người nhiều hơn, có người ít hơn như một ma trận thiếu hạng—hoặc dư thừa, hoặc mất mát thông tin.
Đấy là lý do vì sao ma trận vuông đủ hạng thật sự rất ngầu, như dao đa năng Thụy Sĩ của đại số tuyến tính: chúng duy trì tính bảo toàn của dữ liệu.
Có điều trong thực tiễn thì mục tiêu vẫn là giảm chiều dữ liệu nhiều nhất có thể mà sao vẫn giữ được những đặc trưng quan trọng nhất.
Quay lại chủ đề chính trước khi hắn lại sa đà vào cái hố nghệ thuật xử lý dữ liệu và tín hiệu—cho dù nói đúng ra nó cũng có liên quan không ít đến chuyện chúng đang bàn, nhưng cái đấy có thể để sang một ngày khác—: "Dù sao thì, phải, đường thẳng vẫn hoàn đường thẳng—đấy là tính chất cơ bản của một phép biến đổi tuyến tính." Tobio kéo cái dây thun cột tài liệu ăn trộm của Yachi đeo quanh cổ tay ra, kéo qua kéo lại nó giữa những ngón tay. "Đường thẳng có thể bị kéo dài hoặc thu ngắn lại, hoặc bị xoay chiều đổi hướng, cơ mà không bao giờ bị bẻ cong. Giờ thì. Có một số vector hành xử rất đặc biệt dưới một phép biến đổi ma trận nhất định." Hắn quấn dây thun quanh những ngón tay, cố gắng căn chỉnh sao cho được một hình tròn—hay chí ít là một cái hình na ná hình tròn. "Chúng không xoay chiều hay làm thứ gì đấy màu mè cả, chỉ đơn giản bị kéo giãn hoặc co lại. Những vector này được gọi là vector riêng."
"Vậy một vector riêng của một ma trận là một vector dưới phép biến đổi ma trận ấy chỉ thay đổi độ dài chứ không đổi hướng?"
"Ừ. Và hệ số thay đổi độ dài của vector ấy thì được gọi là giá trị riêng. Tổng quát cậu có một phương trình gọn đẹp:" Tobio đổi sang cửa sổ đang để trình soạn thảo văn bản lên đánh nhanh Ax = λx, di chuột chỉ quanh lý giải từng thành phần, "λ là giá trị riêng của ma trận A và x là vector riêng tương ứng với giá trị riêng ấy."
"Thế thì có thể hiểu là một vector riêng nằm 'trong vùng' của phép biến đổi ma trận và giá trị riêng đo cường độ của phép biến đổi theo hướng đó?" Tsukishima kết luận.
Tobio gật một cái xác nhận. "Chuẩn rồi đó."
"Và chung quy lại, 'bài toán giá trị riêng' là bài toán tìm giá trị riêng của một ma trận?"
"Chẳng phải quá rõ ràng hay sao?"
Tsukishima đảo mắt.
"Tính mấy cái này để làm gì?" y hỏi tiếp, bởi hiển nhiên là như vậy.
Câu này Tobio nghe cũng nhiều rồi—từ Hinata, từ Yamaguchi, từ Yachi, từ Kunimi và Aoyagi cũng như tất cả những đứa khác đã và đang được hắn phụ đạo. Không như lý hóa sinh, những bộ môn làm việc những khái niệm, những hiện tượng mày có thể trực tiếp quan sát ngoài đời thực, toán vẫn là một thứ gì đấy cảm giác thật trừu tượng khô khan, nhất là khi càng học lên cao sách giáo khoa toán của chúng càng ít số đi, thay thế bằng càng nhiều ký tự biểu tượng. Yamaguchi, Yachi và Hinata vẫn suốt ngày càm ràm với hắn, chẳng phải biết cách tính cộng trừ nhân chia cơ bản là đủ xài cho đời sống hằng ngày rồi hay sao, tớ cần biết tính đạo hàm để làm gì?
Cho đến khi hắn đơn giản chỉ ra cho chúng nó, rằng đạo hàm của quãng đường là vận tốc và đạo hàm của vận tốc là gia tốc: vận tốc là sự biến thiên khoảng cách theo thời gian, và gia tốc là sự biến thiên vận tốc theo thời gian—chuẩn chỉ định nghĩa sách giáo khoa. Yachi là dân chuyên xã hội, là con người của nghệ thuật thì đã đành, tuy nhiên vật lý là sở trường của Yamaguchi cũng như—bất ngờ cơ mà cũng không có bất ngờ lắm—cái môn khá khẩm nhất trong học bạ thảm hại của Hinata, lấy ví dụ bóng chuyền không được khả quan hắn vẫn toàn lấy mô hình vật lý ra làm công cụ trực quan giảng bài cho chúng nó, cho dù lý thật sự không phải là thế mạnh của hắn.
Cái này hình như là một xu hướng: mày hoặc giỏi lý, hoặc giỏi toán. Không thể có cả hai được.
—À không, thực ra vẫn có. Hắn đang nhìn vào một thằng như vậy đây này.
Đành rằng Tobio đã tính ra được tất cả các vector riêng và dải quang phổ giá trị riêng của hệ thống từ đời thuở nào—hay ít nhất là hắn tin hắn đã tính ra được hết—, tới giờ hắn thật sự vẫn không biết nên xử lý cái ma trận dữ liệu khổng lồ này như thế nào cho phải, thành thử ra vẫn cứ để y nguyên nó như vậy trong bộ nhớ, cho dù hao tốn rất nhiều dung lượng.
"Về cơ bản, chúng là đặc trưng của một ma trận—không có hai ma trận ngẫu nhiên nào có chung một tổ hợp giá trị riêng-vector riêng." Ờ thì ma trận chéo hóa được hay tam giác hóa được có cùng giá trị riêng với dạng chéo hóa hay dạng tam giác hóa của nó, giá trị riêng vẫn được giữ nguyên theo phép biến đối tương tự. Vector riêng thì không. Như khi học ngôn ngữ, mày dịch một khái niệm trong ngôn ngữ ấy về tiếng mẹ đẻ hay một thứ tiếng nào đấy mày đã sẵn thông thạo để hiểu được ý nghĩa của nó, cơ mà quá trình phiên dịch có làm cách viết, cách thể hiện của nó khác đi. "Giá trị riêng và vector riêng là bản thiết kế—là DNA của một phép biến đổi—có thể nói là của toàn bộ một hệ thống, bất kể nó có thể lộn xộn và hỗn loạn đến mức nào."
Ví dụ như những quá trình ngẫu nhiên đa biến như quá trình Ornstein-Uhlenbeck đa biến mô hình hóa động lực chung của các tài sản có mối tương quan, áp dụng trong tối ưu hóa danh mục đầu tư thông qua phân tích phổ của ma trận hiệp phương sai, hay phân tích metric rủi ro, kiểm tra căng thẳng liên quan đến các giá trị riêng của ma trận độ nhạy cảm để xác định rủi ro hệ thống. Cũng có thể được vận dụng để đánh giá tính ổn định của thuật toán giải PDE trong định giá các sản phẩm kinh tế phái sinh—cái này tính ra hắn làm khá nhiều, thậm chí còn là một routine không thể bỏ được khi hắn phụ mẹ kiểm tra thuật toán và xử lý số liệu, bởi vì mẹ sinh được thằng con có khiếu giải tích số để làm gì.
Trong cơ học lượng tử, giá trị riêng và vector riêng mô tả các tính chất có thể đo lường được của hệ lượng tử. Trạng thái của một hệ lượng tử được biểu diễn bằng một vector trong không gian Hilbert, và các đại lượng vật lý quan sát được—năng lượng, động lượng hoặc mômen động lượng—được biểu diễn bằng các toán tử Hermite là ma trận trong các chiều hữu hạn. Các giá trị riêng của các toán tử này tương ứng với các đại lượng có thể đo được, trong khi các vector riêng biểu diễn các trạng thái có thể có của hệ.
Trong vật lý hạt nhân, giá trị riêng và vector riêng giúp mô hình hóa các hệ thống phức tạp như lò phản ứng hạt nhân hoặc tương tác hạt. Các bài toán giá trị riêng xác định tính tới hạn của lò phản ứng hạt nhân, chẳng hạn như trong các phương trình khuếch tán neutron, giá trị riêng lớn nhất—thường được gọi là hệ số nhân hiệu dụng—xác định xem lò phản ứng là dưới tới hạn, tới hạn hay siêu tới hạn, từ đấy là chìa khóa thiết kế những lò phản ứng an toàn và hiệu suất.
Mô hình FitzHugh-Nagumo, mở rộng ra là mô hình Hodgkin-Huxley, thường được sử dụng để mô phỏng các điện thế hoạt động của tim, thường có liên quan đến việc giải quyết các bài toán giá trị riêng. Tính ổn định của các mô hình này—ví dụ như liệu một tế bào tim có trở lại trạng thái nghỉ sau khi bị kích thích hay không—được xác định bằng cách phân tích các giá trị riêng của ma trận Jacobi của hệ thống.
Những cái này là những chủ đề Tobio sẵn đã có trải nghiệm, hoặc là từ việc làm phụ tá chạy chương trình mô phỏng và tính toán cho các nghiên cứu, hoặc là nhờ có ông bố bà mẹ thích mang việc về nhà trải lanh tanh bành ra trên bàn ăn suốt ngày bị ông ngoại mắng vẫn không chừa. Hắn thì vốn ham học, học tất, xấu hay tốt đều học, học từ toán cao cấp và kinh tế định lượng đến cơ học lượng tử và kỹ thuật hạt nhân, học luôn cả tính nghiện công việc vô phương cứu chữa.
Những chủ đề này lấy ra làm ví dụ áp dụng thực tiễn cho một học sinh năm hai cao trung thật sự không có ổn cho lắm, cho dù thằng đó có thông minh xuất chúng cỡ nào đi chăng nữa. Tobio đánh nhịp ngón tay lên mép bàn phím, cố nghĩ xem có cái nào dễ hình dung hơn không.
Màn hình máy tính đã tối thui từ lúc nào. Hắn di chuột đánh thức nó trở lại. Màn hình hiển thị cái file .py hắn đang xem lại trước khi bị Tsukishima phá bĩnh, là thuật toán QR hắn viết từ hồi năm hai sơ trung học môn Giải tích Số 3. Ichijou có cho hắn thêm một bài tập phụ nữa, mở rộng thành bài toán giá trị riêng tổng quát trong lĩnh vực phân tích rung động của các cấu trúc cơ học có nhiều bậc tự do—như một tòa nhà cao tầng, một tòa tháp hay một cây cầu treo—
"Cậu có biết cầu Thiên Niên Kỷ không? Cây cầu treo cho người đi bộ bắc qua sống Thames ở London ấy?"
Tsukishima nhìn Tobio không chớp mắt trong ba giây.
Thế rồi, "Có," y đáp. "Đã từng thấy, đã từng đi trên nó rồi. Nghe nói rằng người ta đóng cửa nó chỉ hai hôm sau ngày khánh thành để tu sửa lại bởi vì nó rung lắc quá nhiều."
Tsukishima biết sự vụ tức là Tobio không cần phải giải trình dông dài. Tốt. "Cậu nghĩ là do đâu mà ra như thế?"
"Do sự đồng bộ từ bước chân của người đi bộ trên cầu ngày hôm ấy." Tsukishima khịt mũi. "Không phải như người ta không biết đến vấn đề này từ đời tám hoánh nào rồi. Có một vụ tai nạn xảy ra ở miền bắc nước Anh vào năm 1831, tôi nghĩ vậy, khi một đội quân diễu hành qua một cây cầu và nó sụp đổ dưới chân họ. Không ai chết cả, nhưng Quân đội Anh sau đó đã ra lệnh cho tất cả quân lính phải phá vỡ nhịp đều bước khi băng qua cầu." Chi tiết này là cái Tobio thực tế không có biết. Tuy nhiên hiển nhiên là một tên mọt lịch sử như Tsukishima sẽ biết.
"Đúng, và sai." Nghe hắn phán vậy chân mày thiếu gia hơi nhíu lại. Hắn cười khẩy. "Cậu không nghĩ rằng các kỹ sư xây dựng cầu cũng thừa biết à? Rằng cấm chỉ xây cầu đi bộ có tần số cộng hưởng bằng với tần số bước đi của người."
Tsukishima tặc lưỡi. "Ừ thì thế." Y đánh nhịp ngón tay trên đùi trầm ngâm một chốc, trước khi, "Có phải là do cấu trúc cầu không?" y vạch ra. "Ý tưởng là thiết kế nó với hình ảnh 'dải sáng', tức là không giống như những cây cầu treo thông thường, các dây cáp hỗ trợ căng dọc thân cầu."
Tobio nghiêng đầu, cân nhắc ý tưởng này chút đỉnh—như đã đề cập phía trên, lý không phải sở trường của hắn.
"Một phần nào đấy," là đánh giá của hắn. Cũng là một ý. Một cây cầu treo dù sao vẫn là một hệ thống cơ học với nhiều tham số độc lập xác định hình dáng cũng như trạng thái của nó, ngay cả khi đơn giản hóa bài toán coi nó như một vật thể rắn không uốn cong hay biến dạng. Một hệ thống càng phức tạp thì càng dễ bị ảnh hưởng, càng dễ bị đảo lộn bởi một tác nhân dù nhỏ thế nào đi chăng nữa.
Tuy nhiên đấy không hẳn là cái chủ đề hắn muốn bàn vào lúc này, bởi vì đấy là một cái can đầy giun đầy giòi một học kỳ mới chỉ cào cào được sơ sơ trên bề mặt tảng băng chứ chẳng nói gì đến giải quyết được xong trong một chuyến tàu.
"Cứ cho là mỗi giây cậu bước được hai bước đi," Tobio nói. "Một bước chân trái, một bước chân phải. Cây cầu tốt hơn hết là đừng có hệ số cộng hưởng theo hướng thẳng đứng là 2 hertz. Cái này những người đã thiết kế và xây dựng cầu Thiên Niên Kỷ có biết. Cái họ không biết, ấy là một nửa tần số cũng quan trọng, là tần số cậu bước—cho là chân trái đi."
"Và một nửa thời gian cậu đặt chân trái xuống đường," Tsukishima bắt được mạch ngay và luôn. Thật tình, phụ đạo toán đứa nào cũng được như thế này thì tốt biết mấy. "Với mỗi bước như vậy, cậu không chỉ tác động một lực hướng xuống cầu, mà còn một lực nữa sang một bên cầu."
Ngẫm ra thì cũng hợp lý: cáp treo bên hông hỗ trợ tải trọng thẳng đứng nhưng kém hiệu quả hơn trong việc chống lại lực ngang.
"Bình thường cái này không thành vấn đề." Bình thường thì là thế. "Mỗi người có một nhịp bước riêng, không ai đồng bộ với ai hết, lực ngang cùng lắm chỉ quanh quẩn bằng một phần mười lực hướng xuống tác động lên cầu, không đáng kể, không ảnh hưởng gì đến cây cầu hết."
"Nhưng vào hôm khánh thành, mọi người trên cầu có bước đồng bộ với nhau," Tsukishima chỉ ra. "Mấy clip cũ của BBC trên mạng có đầy."
"Và cậu nghĩ tại sao lại thành ra như vậy?"
Trước câu hỏi này cái cau mày đăm chiêu của Tsukishima trông là tệ nhất trong cả cuộc thảo luận này, im lìm một thôi một hồi thật lâu, ngồi ngay kế bên Tobio có thể nghe thấy tiếng từng bánh răng chuyển động trong đầu y, bắt đầu có vẻ trúc trắc.
Hắn quyết định đưa thêm dữ liệu vào bộ máy. Dù sao thì hồi đầu mới lần mần mô hình hóa hiện tượng này hắn cũng không nghĩ được ra nếu như không có ba giải thích gợi ý thêm.
"Lúc đầu, lực ngang nhỏ do bước chân của mọi người gây ra không quan trọng lắm. Nhưng khi cây cầu bắt đầu lắc lư—chỉ một chút thôi—nó khiến mọi người hơi mất thăng bằng. Cậu sẽ làm gì khi mặt đất dưới chân rung chuyển?"
"Cậu điều chỉnh bước đi để giữ thăng bằng," Tsukishima đáp, "như cậu sẽ làm khi ở trên một con thuyền chòng chành vậy." Với những người thông minh thì nói ít hiểu nhiều: chỉ cần một tia sáng thôi là lửa sẽ bén, sẽ thành ra cháy rừng, thành ra bão lửa, bão mặt trời. "Không phải do mọi người đi bộ đồng loạt khiến cây cầu rung lắc mà chính là do cây cầu rung lắc khiến mọi người bước đi đều cùng một nhịp."
Tobio gật đầu. "Và khi mọi người bắt nhịp với chuyển động của cây cầu, họ vô tình tiếp thêm năng lượng vào cây cầu, khiến cho nó càng lắc lư dữ dội hơn. Đấy là một vòng phản hồi tích cực giữa chuyển động của đám đông và chuyển động của cây cầu."
Sau khi cây cầu đóng cửa, các kỹ sư đã yêu cầu đồng nghiệp đi bộ qua với số lượng ngày càng tăng, trong khi họ đo gia tốc của nó. Năm mươi người không hề hấn gì. Với một trăm người, độ rung hầu như không tăng. Một trăm năm mươi sáu người đi qua đi lại cây cầu vẫn không lắc lư. Tuy nhiên chỉ cần thêm mười người nữa, gia tốc bất ngờ tăng vọt và cây cầu nghiêng ngả y như cái ngày khánh thành, hệ thống đã trải qua một giai đoạn chuyển đổi.
Vấn đề đã được xác định thì giải quyết cũng không đến nỗi khó khăn: bằng cách tốn thêm dăm ba triệu bảng lắp đặt giảm chấn tiêu tán năng lượng dọc cây cầu.
Dưới ánh đèn huỳnh quang lạnh gắt xối xuống, cặp đồng tử vàng rực cháy sáng như hai vầng thái dương tí hon. Sắc màu tự nhiên vốn dĩ cũng đã khiến Tsukishima trông tươi sáng, dẫu có phần lạnh lẽo như nắng đậu trên tuyết đầu mùa, tuy nhiên thiếu gia khắc kỷ ngạo kiều hiếm khi nào bộc lộ cảm xúc, bộc lộ sự hào hứng của mình hẳn ra mặt như vậy. Tobio có thể hiểu được sự hào hứng ấy, quá hiểu là đằng khác, cái cảm giác mọi mảnh ghép tự động lắp ghép vừa khít với nhau, cảm giác mọi thứ đột nhiên có ý nghĩa. Hồi ấy phản ứng của hắn cũng y chang như vậy, bởi vì đấy là lần đầu tiên hắn cảm thấy thật sự thấu hiểu một hiện tượng vật lý.
Tobio ước gì Tsukishima trông như vậy thường xuyên hơn.
Lan man dông dài chán chê rồi cuối cùng chúng nó cũng mò lại được về điểm xuất phát: "Cái này thì rút cục có liên quan gì đến bài toán giá trị riêng?" Tsukishima hỏi.
"Sự rung lắc của cây cầu có thể được mô hình hóa như một bài toán rung động," Tobio nói. Cái gì cũng có thể quy được về một mô hình toán học—cho dù buổi đầu tiên của lớp Mô phỏng Số Kurata đã phán một câu xanh rờn rất phũ phàng, tất cả các mô hình đều sai lè, trước khi nhăn nhở, âu mà có một số cái có thể xài được*****. "Mỗi mốt rung động của cây cầu có một tần số tự nhiên—là một giá trị riêng. Mẫu chuyển động tương ứng với mỗi tần số là vector riêng. Ví dụ như trong một mốt, cây cầu có thể lắc lư sang hai bên; trong một mốt khác, nó có thể hơi nảy lên xuống."
"Và nếu một trong những giá trị riêng—hay tần suất—đó trùng với nhịp bước chân của đám đông—"
"—và cậu có cộng hưởng."
.
.
.
Kageyama Kazuyo có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, ông không gặp chấn thương đầu gối lúc mười tám tuổi, vừa nhận được lời mời vào đội tuyển Quốc gia. Trong giấc mơ ấy, ông có thể bật nhảy thật cao với lấy trái bóng, có thể chạy đuổi kịp cũng cú giao bóng thần sầu và thực hiện những quả jump serve cũng khủng bố không kém. Ông có thể thỏa sức tung hoành khắp sân bóng không gì cản đường.
Trong giấc mơ ấy, ông được tham dự Olympic. Trong giấc mơ ấy, đội tuyển Nhật Bản được huy chương vàng tại Thế Vận hội.
Trong giấc mơ ấy, Kageyama Kazuyo là Đế vương Sân bóng, là Antoninus Pius thực thụ.
Trong giấc mơ ấy, Kageyama Kazuyo yêu bóng chuyền, và bóng chuyền cũng đáp trả lại tình yêu ấy nhiều tương đương.
Có điều, đời không là mơ.
Ngay từ khi còn nhỏ Tobio đã nhận ra đấy là hối hận, là luyến tiếc lớn nhất của ông ngoại. Dĩ nhiên không có khả năng làm điều mình muốn, làm điều mình yêu thích ai chả đau đớn, chả khổ sở. Trở thành giáo viên thể dục và huấn luyện cho các đội bóng chuyền sơ trung cao trung là một thỏa hiệp, ông vẫn có thể sống, vẫn có thể hít thở bầu không khí bóng chuyền, vẫn có thể gắn bó với bóng chuyền trong khả năng bản thân cho phép.
Thế nên khi ông dạy hắn bóng chuyền, hắn vẫn chăm chỉ lắng nghe luyện tập, cho dù cá nhân không phải là ưa vận động và thể chất bẩm sinh cũng không chuộng làm việc nặng trong một thời gian dài gì cho cam. Thế nên buổi tối hắn vẫn hay ra sân chuyền bóng qua lại với ông. Thế nên hắn vẫn tham gia vào câu lạc bộ bóng chuyền ở trường, thế nên hắn vẫn tham gia thi đấu bóng chuyền, thế nên hắn vẫn cố gắng hết sức mình để tồn tại trên sân càng lâu càng tốt cho dù tim hắn nện thùi thụi đau đớn cùng tận kéo lồng ngực thắt chặt lại không thể thở nổi, cho dù mọi tế bào trong cơ thể hắn gào thét phản đối, cho dù từng giây phút trên sân bóng hắn cảm tưởng như muốn chết được rồi.
Thế nên khi ông xoa đầu hắn lần cuối, khi ông nắm lấy tay hắn lần cuối, hắn đã siết lại lấy tay ông.
"Ông cứ an tâm," hắn đã bảo với ông ngoại như thế. "Con sẽ tiếp tục chơi bóng chuyền."
Đấy là những lời cuối cùng hắn nói với ông.
Hắn không buông bỏ ngay cả khi tay ông không còn chút hơi ấm nào nữa.
Hắn không buông bỏ ngay cả khi hắn nên làm điều ấy. Nên làm từ lâu rồi.
.
.
.
Khi nói chuyện bằng tiếng mẹ đẻ của ba, ba không gọi hắn là Tobio, mà gọi bằng tên phiên âm trong ngôn ngữ ấy—cái tên ba thật sự muốn đặt cho hắn.
Phi Hùng. Với mong muốn sau này hắn sẽ đủ mạnh mẽ để bao cao, bay xa, bay tới trời xanh.
Kể ra thì đấy cũng là một ao ước khá là viển vông, xét việc hắn bẩm sinh đã yếu ớt ra sao, yếu tim ra sao. Ngay cả khi tất cả những người xung quanh đã cho hắn một đôi cánh, một đôi cánh từ làm lông chim rụng, chỉ sợi rút từ chăn, dây da từ xăng-đan, kết dính lại bằng sáp ong. Một đôi cánh hắn có thể dùng để bay được, chỉ cần cẩn thận đề phòng, đừng bay quá cao kẻo mặt trời nung chảy sáp ong, cũng đừng bay quá thấp không nước sẽ thấm vào lông cánh.
Hắn đoán hắn đã bay quá cao. Để rồi rớt xuống quá sâu.
.
.
.
Giọng Tsukishima kề sát tai hắn, rành rọt từng tiếng, có gì đấy uất ức như tiếng trái tim gào thét quằn quại trong lồng ngực trái hắn, nện thùi thụi vào mạng sườn hắn đau điếng.
Cậu không muốn sống à?
Hắn nhắm nghiền mắt lại. Để ánh tà dương để lại dư ảnh nhảy múa trong mi mắt, loang lổ như những bông hoa máu, máu ứa ra khỏi trái tim sứt sẹo của hắn chảy ra khuếch tán trong đại dương.
Yên tâm, hắn đã đáp lại như vậy. Tôi vẫn còn muốn sống lắm.
Đấy là lần duy nhất hắn nói dối Tsukishima. Ít nhất một phần nào đấy.
.
.
.
Hai ma trận có thể có chung phổ—chung một tập hợp giá trị riêng. Hai ma trận này tương tự nhau.
Nhưng chúng không có cùng vector riêng. Phép biến đổi tương tự bảo toàn giá trị riêng, vector riêng thì không.
Hai ma trận này tồn tại dựa trên hai cơ sở khác nhau—hai hệ tọa độ khác nhau.
Hai thế giới khác nhau.
.
.
.
Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, ba mẹ hắn vẫn ở lại Đức, mẹ vẫn làm phân tích tài chính, ba làm việc ở nhà máy điện hạt nhân Biblis cho đến khi cậu con thứ lên năm thì chuyển sang làm việc ở viện nghiên cứu Jülich trụ sở Düsseldorf. Emilia và Tobias Bach—hay Mia và Tobi như gia đình và bạn bè thân thiết vẫn thường hay gọi—sinh ra và lớn lên ở Düsseldorf, tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ, cho dù bà má yêu dấu vẫn đảm bảo rằng con mình giao tiếp được bằng tiếng Nhật thuần thục và cộng đồng người Việt ở Düsseldorf đủ lớn để chị em hắn đụng độ phải người Việt bắt buộc phải sử dụng tiếng mẹ đẻ của ba. Thể trạng hắn vẫn yếu ớt dặt dẹo, thậm chí còn ốm bệnh liểng xiểng hơn gấp bội, thành thử ra không chơi thể thao, nhưng không thành vấn đề. Những người đầu cơ táo bạo nhất thường tuân thủ sự yên tĩnh hoàn hảo nhất với các điều luật bên ngoài của xã hội; chỉ riêng suy nghĩ đã đủ với họ, mà không cần đầu tư vào xương thịt của hành động.****
Trong giấc mơ ấy, mẹ vẫn đưa những bài toán hóc búa cho hắn làm cho đỡ buồn đầu và ba vẫn ôm hắn trong lòng kể chuyện về những nguyên tử, về những vì sao, về những quy luật tự nhiên tạo ra ánh sáng và năng lượng khiến vũ trụ bừng sáng và chuyển động và sống. Bà Eberhardt hàng xóm có nuôi một con mèo tam thể già tên Milo và hắn đi học về vẫn thường hay sang chơi với nó, tiện thể giúp bà lão tưới cây và tỉa hoa, đổi lấy những miếng bánh ngọt và những hũ sauerkraut tự làm. Một buổi chiều ấm áp Milo cuộn mình thiếp đi trong lòng hắn và không bao giờ tỉnh dậy trở lại nữa. Hai năm sau đấy bà Eberhardt cũng chìm vào giấc ngủ ngàn thu và con gái bà bán căn nhà ấy đi. Vào sinh nhật thứ năm mươi mốt của ba, gia đình hắn qua đi du lịch Ý, đi thăm Đấu trường La Mã và đền thờ Pantheon và Forum Romanum, đi thăm Cortile del Belvedere của Bảo tàng Pio-Clementine thuộc khu phức hợp Bảo tàng Vatican, nghển cổ ngắm nhìn Apollo Belvedere là khuôn mẫu tiêu biểu cho lý tưởng thẩm mỹ hoàn hảo của mỹ thuật phương Tây hàng thế kỷ.
Trong giấc mơ ấy, hắn không biết đến bóng chuyền. Chưa từng biết đến bóng chuyền. Không có cơ hội, không có đủ thời gian để mà biết.
Trong giấc mơ ấy, con mèo chết.
Trong giấc mơ ấy, trái tim hắn, sau trường kỳ kháng chiến đau khổ lầm than, cuối cùng cũng đầu hàng bỏ cuộc sau mười sáu năm.
.
.
.
Tobias có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, hắn sống qua tuổi mười sáu.
Trong giấc mơ ấy, hắn có thể tận mắt chứng kiến chị gái mình nhận bằng thạc sĩ chuyên ngành hóa sinh. Khi Mia nhận việc ở một công ty mỹ phẩm trụ sở tại Berlin, hắn đi theo chị, học ở một trường cao trung kỹ thuật.
Trong giấc mơ ấy, hắn trúng tuyển Đại học Kỹ thuật Berlin, ngành khoa học máy tính khi ấy là một trong những ngành cạnh tranh nhất. Thời gian học thạc sĩ hắn làm việc ở bộ phận kỹ thuật của công ty chị hắn làm; lấy được bằng tiến sĩ thì đi chuyên sâu vào mảng trí tuệ nhân tạo, làm việc trong bộ phận nghiên cứu và phát triển của một tập đoàn công nghệ đa quốc gia. Một cuộc đời có thể gọi là thành công trong mắt đại đa số, cũng lại cực kỳ bình an hạnh phúc. Một cuộc đời tốt đẹp.
Trong giấc mơ ấy, hắn không biết đến bóng chuyền. Chưa từng biết đến bóng chuyền. Hắn không có lý do gì để biết đến bóng chuyền cả. Không như ở Nhật hay Ý hay Brazil, bóng chuyền không nổi tiếng ở Đức như bóng đá hay bóng rổ. Ba mẹ hắn thuộc tầng lớp trí thức cao cũng không để tâm lắm đến thể thao, có hai đứa con cũng thuộc thể loại mọt sách não nhiều nếp nhăn, miệt mài theo đuổi con đường học vấn từ tấm bé.
Tri thức là sức mạnh.
Tuy nhiên đi đôi với nó cũng có câu, vô tri là phúc lạc.
Trong giấc mơ ấy, hắn sống lâu được thêm một chút nữa.
Trong giấc mơ ấy, con mèo vẫn chết.
Trong giấc mơ ấy, hắn cuối cùng cũng chết, bị nuốt chửng bởi mớ công việc và nỗi cô độc cùng tận của chính mình.
.
.
.
"Thỉnh thoảng mẹ ước gì mẹ đã không đưa ra thỏa thuận ấy với ba."
Tobio ngẩng đầu lên khỏi đề cương văn đã tra tấn hắn đến giờ là hơn hai tiếng đồng hồ tối nay.
Kể từ khi ông ngoại và ba mất và Miwa sinh sống làm việc ở Tokyo, hai mẹ con hắn không rõ chính xác khi nào bắt đầu có thói quen mang việc ra phòng khách làm. Buổi tối tắm rửa ăn uống xong, Tobio sẽ pha một bình trà, rót ra hai cốc, một cho hắn, một cho mẹ, trước khi bắt tay vào công việc: hắn làm bài tập về nhà hoặc tiếp tục với những dự án của riêng mình, lật giở sách vở loạt soạt tham khảo; trong khi mẹ soạn giáo án, chấm bài cho sinh viên, xem xét đề án và đọc tài liệu. Có vấn đề gì đấy khúc mắc nằm trong phạm trù của mẹ hắn cũng có lên tiếng hỏi bà; mẹ nổi hứng muốn kiểm tra đánh đố hắn cũng đưa cho hắn một bài toán, một bản thảo, kêu hắn đánh mắt qua một lượt và bình luận.
Họ không nói chuyện về mấy thứ như thế này. Chỉ đơn giản là không. Chỉ sợ rằng một khi mở miệng là mọi thứ sẽ tuôn trào như vỡ đập thủy điện, như trận sóng thần năm ngoái, không thể kìm nén được, không thể ngăn cản được.
Mẹ không nói, tuy nhiên hắn cũng biết là bà nhớ chồng khôn nguôi. Những lần duy nhất hắn thấy mẹ khóc tất yếu là vì ba hết. Bà nhận cái dự án mô phỏng nhà máy điện hạt nhân hoàn toàn nằm ngoài vùng an toàn của bản thân này cũng là một cách tự an ủi mình, một cách tưởng nhớ ông, dù là vô thức hay cố ý.
Đây là lần đầu tiên mẹ chủ động nói về ba kể từ khi ông mất.
"Sao mẹ lại nghĩ thế?" Tobio hỏi, thập phần bối rối khó hiểu.
Mẹ không trả lời vội. Bà nhấc cốc trà đã nguội từ lâu lên nhấp một ngụm dài, rồi hạ nó xuống, khum tay quanh thành sứ.
"Mẹ đã kể cho con ba mẹ gặp nhau thế nào chưa?"
.
.
.
Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, ba và mẹ không gặp nhau.
Trong giấc mơ ấy, hắn không tồn tại.
Trong giấc mơ ấy, Kageyama Tobio chưa bao giờ tồn tại.
.
.
.
Đêm hôm ấy, mẹ nói nhiều hơn mười sáu năm hắn biết bà cộng lại.
Ba mẹ gặp nhau khi hai người đang học cử nhân ở Đại học Kỹ thuật Berlin, thông qua mấy người bạn chung, ban đầu không ưa gì nhau, hở ra là chí chóe như chó với mèo (mẹ thắng nhiều hơn, cơ mà nghĩ lại thì chắc toàn là do ba con nhường cả). Đến kỳ thứ năm, chọn làm dự án về tự động hóa là kết hợp giữa ba ngành toán, công nghệ thông tin và kỹ thuật điện, chuẩn chỉ các cụ vẫn thường nói ghét của nào trời trao của ấy bị nhét vào cùng một nhóm với nhau; vì mục đích chung cao cả hơn mà hai người đành ngậm bồ hòn làm ngọt bắt tay chơi đẹp với nhau. Dù sao thì cả Bạch Nguyên Khải lẫn Kageyama Chihiro là sinh viên ngoại quốc duy nhất trong nhóm, lại vừa là sinh viên xuất sắc nhất trong ban ngành khi ấy, chỉ có một bộ óc vĩ đại mới có thể thấu hiểu được một bộ óc vĩ đại khác thành thử ra bàn bạc làm ăn vẫn tâm đầu ý hợp cực kỳ hiệu suất, hết dự án vẫn hay gặp nhau trao đổi ý tưởng và xin góc nhìn thứ hai cho đến tận khi lấy được bằng thạc sĩ rồi tiến sĩ xong ra đi làm. Đến khi có công ăn việc làm ổn định thì quyết định kết hôn vì lý do thuế.
Mẹ kể đủ thứ chuyện, từ những chuyện hắn đã từng nghe nhưng giờ có thêm chi tiết, cho đến những sự vụ hắn chưa bao giờ hay biết. Về vụ họ đi chơi xa về muộn không có tàu bị mắc kẹt ở một bến giữa chốn đồng không mông quạnh. Về cái bận ba gõ cửa phòng ký túc mẹ ầm ầm lúc nửa đêm chỉ vì một ý tưởng điên rồ xuất chúng và cần một người thực hiện tính toán sơ bộ xem có khả dĩ hay không. Về hồi mẹ chuyển khỏi ký túc xá sang một căn hộ mới, thân con gái chân yếu tay mềm lại không biết tí gì về sửa chữa xây dựng phải nhờ ba đóng giường tủ bàn ghế hộ. Về cái đợt ôn thi cuối kỳ mẹ ngất xỉu trong thư viện ba đã đưa mẹ đến bệnh viện lại còn ở bên trông chừng bà qua đêm. Về nhiều câu chuyện khác nữa, về nhiều cuộc phiêu lưu khác nữa của hai người thời thanh xuân, vẫn còn trẻ người nông nổi, vẫn còn ngây thơ chưa thấu sự đời lại còn lưu lạc nơi đất khách quê người, bằng cách nào đấy tìm được đến nhau, nương tựa vào nhau, quyết tâm cầm tay nhau thật chặt, thề nguyện với nhau sẽ không bao giờ buông bỏ.
Càng kể, càng quay ngược sâu hơn vào quá khứ, càng chìm sâu hơn trong dòng chảy hồi tưởng, mắt bà càng sáng, nhưng cũng càng mờ nhòe đi, lóng lánh ánh nước.
Mẹ cúi đầu, trông xuống cốc trà trong lòng, ngón trỏ mân mê lần quanh miệng cốc.
"Khi ông ngoại con đổ bệnh, mẹ biết mẹ không còn sự lựa chọn nào khác." Giọng bà chỉ lớn hơn tiếng thì thầm một chút, và run rẩy như thể có thể vỡ vụn bất cứ lúc nào. Hắn chưa bao giờ nghe thấy mẹ như vậy, ngoại trừ cái lúc thằng nhóc con là phiên bản thu nhỏ của tình yêu lớn nhất đời bà cuối cùng cũng vượt qua được cơn thập tử nhất sinh, tỉnh dậy chớp chớp mắt nhìn bà lần nữa, lâu thêm nữa. Dù sao thì những thứ cứng rắn mới dễ vỡ, và mẹ phải gồng mình cứng rắn đã quá lâu rồi. "Ba con thì khác."
.
.
.
Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, ba và mẹ không đến với nhau.
Nhưng hắn vẫn tồn tại.
.
.
.
"Thỏa thuận ấy thực sự là rất bất công với ba con," mẹ nói, giọng nghẹn ắng chữ được chữ mất, nhấn chìm giữa biển day dứt tội lỗi. "Ba con phải từ bỏ công việc, từ bỏ quê hương, từ bỏ cả tên họ; theo mẹ về đây phải học một thứ tiếng mới, theo một nền văn hóa mới, nhận lấy một công việc đầy nguy hiểm như thế để chu cấp cho mẹ và các con.
Đồng ý theo mẹ về đây, ba con đã chịu hy sinh tất cả những gì thuộc về bản thân mình."
Mẹ khép mi. Để giọt nước tràn ly lăn dọc xuống má.
Khóe môi mẹ cong lên đầy đắng chát.
"Thỉnh thoảng mẹ tự hỏi, liệu ba con có thể sống lâu hơn, sống hạnh phúc hơn, phải như ba không chấp nhận thỏa thuận ấy."
.
.
.
Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, ba và mẹ có gặp nhau. Tuy nhiên chuyện giữa họ không thành. Mẹ nghe tin ông ngoại ốm tức tốc bay về Nhật và ở hẳn đấy luôn không đi đâu nữa. Ba cũng không ở lại Đức, mà quyết định hồi hương. Ông nội từ hồi nào vẫn muốn cậu con trai đích tôn trở về, bởi ông đã già yếu và thằng con trưởng hồi ấy đã ngấp nghé ba mươi tuổi rồi mà vẫn chưa có vợ, vẫn còn lưu lạc xứ người, và ông già muốn biết chắc chắn rằng tên họ của mình đã được truyền tiếp đi trước khi nhắm mắt xuôi tay.
Thế nên ba thôi việc ở nhà máy điện hạt nhân Biblis và trở về nhà, được giới thiệu với người vợ tương lai của mình là con gái của một cộng sự thân cận của một ông chú họ. Hai người kết hôn hai năm sau đó vào mùa xuân, và vào ngày đông chí của năm sau, họ chào đón đứa con đầu lòng của mình.
Trong giấc mơ ấy, ba cũng là người đặt tên cho hắn, cho thằng con trai đầu lòng giống ông như hai giọt nước.
Trong giấc mơ ấy, hắn không phải là Kageyama Tobio.
Trong giấc mơ ấy, tiếng mẹ đẻ của hắn cũng là tiếng mẹ đẻ của ba.
Bạch Phi Hùng là một thiếu niên bình thường. Có lẽ hơi gầy gò xanh xao một chút do mắc chứng hồng cầu nhỏ di truyền từ cả ông bô lẫn bà bô, dễ bị hoa mắt chóng mặt khi đứng dậy đột ngột, nhưng về phần lớn là một đứa trẻ bình thường, không có gì quá nổi trội. Ông nội có thể an lòng chìm vào giấc ngủ ngàn thu khi thấy thằng con trai độc nhất hồi hương, lấy vợ đồng hương lập gia đình đàng hoàng lại hạ sinh được một thằng cháu trai nối dõi. Hồi hắn sáu tháng tuổi ba có lấy về một con mèo mướp với một mắt xanh một mắt vàng, gọi nó là Gạo bởi vì nó tròn mẩy như hạt gạo nếp, cũng tham ăn rất tốn cơm tốn gạo. Vào một buổi chiều đầu hạ, khi hắn đang ôn thi cấp ba, Gạo chui vào lòng hắn ngủ như mọi khi và không bao giờ tỉnh lại nữa. Mẹ vốn dĩ ưa sạch sẽ, ưa ngăn nắp, thế nên không khoái nuôi chó mèo trong nhà cho lắm, thế nên khi Gạo chết ba không nhận nuôi con vật nào nữa. Hắn có một cô em gái kém hắn tám tuổi tươi cười tinh nghịch hiếu động trái ngược hẳn hắn, suốt ngày mè nheo đòi hắn giảng toán và tiếng Anh hộ, đòi hắn mua hết cái này đến cái kia. Mỗi lần bị nhờ vả hắn sẽ càu nhàu, nhưng vẫn chiều em gái, đặc biệt là vào năm cuối cùng hắn ở nhà. Dù sao thì hắn cũng sắp đi du học, không còn nhiều thời gian ở nhà nữa.
Trong giấc mơ ấy, hắn là một thiếu niên bình thường. Có lẽ hơi quá trầm tính lầm lì. Có lẽ hơi quá thông minh. Trên lớp nếu như hắn không ngủ gật trong giờ thì cũng mơ màng vẽ nguệch ngoạc gì đấy ra vở, đặc biệt là tiết toán và tiếng Anh lại càng mặt dày bởi vì với kết quả thi cuối kỳ giáo viên không thể bắt bẻ gì hắn được. Trong quãng đời học hành mười hai năm mấy bận thi học sinh giỏi Toán cũng được nhất nhì cấp thành phố. Tan học đi net, chơi bóng rổ và coi anime với mấy thằng bạn. Hắn có một bộ sưu tập manga siêu khổng lồ chiếm nguyên một nửa cái phòng ngủ bé tí, bên cạnh mấy chồng vở vẽ kín đặc mà bà mẹ yêu dấu quyết định thanh lý toàn bộ khi hắn sang Đức du học. Mặc dù có một người cha thông thạo tiếng Đức, hắn không thèm học cho đến năm cuối trung học; ngay cả sau năm năm ở đất nước này, tiếng Đức của hắn vẫn không thuần thục được như hắn mong muốn, nhưng hắn cầm cự được, hắn đổi từ Đại học Kỹ thuật Berlin ngành khoa học máy tính sang Đại học Bonn chuyên ngành toán và với một số nỗ lực—thực ra là nỗ lực đáng kể, vì người Đức không có khiếu hài hước, không biết đùa giỡn—hắn đang trong quá trình hoàn thiện luận văn cử nhân của mình.
Thế rồi một đại dịch toàn cầu ập đến như Khải Huyền.
Trong giấc mơ ấy, con mèo chết.
Trong giấc mơ ấy, hắn, một lần nữa, lại ra đi trước ba. Ra đi đột ngột như ba ở một vũ trụ song song nào đấy.
.
.
.
Tobio đứng dậy.
Hắn bước vòng qua bàn, quỳ xuống bên cạnh mẹ, vừa kịp đỡ lấy bà khi bà sụp đổ hoàn toàn.
.
.
.
Tobio có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, hắn không phải là Kageyama Tobio. Kageyama Tobio là nhân vật thứ chính trong một bộ shounen thể thao. Một trong những người bạn thân nhất của hắn học tiếng Nhật, chỉ ra rằng Hán tự tên Tobio phiên âm Hán Việt ra đúng chóc tên hắn, sinh nhật của nó cũng đúng sinh nhật của hắn, ngoại hình cũng từa tựa nhau, cùng tóc đen nhánh mắt sáng ngời như sao khổng lồ xanh, cho dù hắn cận nặng, da dẻ lại trắng trẻo như trứng bóc do suốt ngày ru rú trong nhà cắm mặt vào máy tính chơi game hoặc vẽ vời linh tinh (cơ mà mày họ Bạch không trắng thì cũng nhục lắm con ạ, mấy thằng bạn chết dẫm của hắn vẫn thường cười cợt như thế, cái lũ khốn nạn vẫn thường xuyên gọi hắn là Bạch công tử với chả Bạch Tuyết), tính tình cũng tự kỷ y hệt, khác mỗi chỗ một thằng đầu bóng chuyền, một thằng thần đồng toán.
Trong giấc mơ ấy, Bạch Phi Hùng không chơi bóng chuyền. Hắn chơi bóng rổ, cho dù là chơi cho vui, chơi cho có tí vận động để mẹ đỡ càm ràm; cộng thêm chút parkour vượt rào trèo tường khi đi học trễ—cái sự xảy ra tương đối thường xuyên bởi hắn là cú đêm chính hiệu. Trong giấc mơ ấy, hắn gọi là giỏi toán, nhưng thực tế là chỉ khá hơn trung bình đại đa số một chút, khá hơn cái đám ban xã hội xung quanh, chứ chẳng nhằm nhò gì. Ừ thì toán là một trong những môn học hắn ít ngán hơn trên lớp, mẹ nhìn hắn lụi hụi vẽ hình lăng trụ tăm giác đều giải bài tập sẽ không cằn nhằn như khi thấy hắn hí hoáy với cuốn sổ vẽ và cây bút chì than trong tay phác hoạ con mèo vằn đang nằm sưởi nắng ngoài ban công, giời ạ, học không học đi, sắp thi học kỳ đến nơi rồi.
Trong giấc mơ ấy, hắn là con trai cả trong nhà, kết quả học tập từ bé đến lớn đều giữ vững phong độ rất tốt đồng đều tất cả các môn bởi vì nếu không tốt thì ăn đòn.
Trong giấc mơ ấy, hắn đi du học bởi vì đấy là điều mọi người kỳ vọng ở hắn. Cho dù hắn đúng là có muốn đi du học thật. Bất cứ cách nào để hắn rời được khỏi căn nhà ngột ngạt ấy, đi càng xa càng tốt và không ngoảnh lại lấy một lần.
Trong giấc mơ ấy, hắn không gặp mấy khó khăn trong việc chọn giữa ba và mẹ. Hắn có thể dễ dàng thừa nhận rằng hắn không yêu nhị vị phụ huynh như nhau. Có một người mà hắn chắc chắn thích hơn, chắc chắn là thấy thoải mái hơn mà trút bầu tâm sự, thấy thoải mái hơn mà hỏi những câu hỏi sâu xa, có thể tự do lên tiếng về những chuyện khó nhằn, khó chấp nhận hơn.
Lần ấy gọi điện về nhà nói chuyện với ba, lần đầu tiên gọi điện về nhà sau nguyên nửa năm vô âm bặt tín, hắn vẫn còn ngồi bệt trên nền nhà vệ sinh, châm điếu thuốc lá để át bớt dư vị tanh nồng mùi nôn mửa trong khoang miệng sau lần tự tử thứ ba bất thành, bằng thứ ngoại ngữ cả ba và hắn cùng có thể nói tương đối thành thạo nhưng không ai khác trong nhà có thể hiểu, hắn đã hỏi ba câu hỏi hắn vẫn luôn muốn hỏi từ rất lâu, rằng ba có thật sự hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. (Rằng ba có hối hận vì đã quay về Việt Nam hay không.)
Nói chuyện điện thoại không bật camera, hắn không thể tận mắt trông thấy vẻ mặt ba ra sao, chỉ nghe được tiếng cười khô khốc của ba vọng lại, âm vang như thể vọng lại một cái hang sâu hun hút, như thể vọng lại từ vực thẳm, cỗ máy thời gian của Doraemon đâu có tồn tại, có hối hận cũng đâu thể quay lại quá khứ mà sửa chữa lại được, chỉ có thể chấp nhận an phận thôi.
Trong giấc mơ ấy, hắn không chọn toán bởi vì hắn yêu toán. Hắn chọn toán bởi vì đấy là lựa chọn dễ dàng. Cái hắn muốn chọn thì không được phép chọn, và hắn không biết phải chọn cái gì khác.
Trong giấc mơ ấy, dù toán không phải là lựa chọn đầu tiên của hắn, hắn dần dà học cách an phận với nó. Thậm chí còn học được cách yêu nó. Đấy là tất cả những gì hắn còn lại, là tất cả những gì hắn có thể nắm lấy trong tay, là tất cả những gì níu kéo hắn với thực tại.
Mày có thể học được tất cả mọi thứ. Kể cả yêu. Kể cả sống.
Chỉ là thỉnh thoảng học được thì cũng quá muộn.
Trong giấc mơ ấy, con mèo vẫn chết.
Trong giấc mơ ấy, khi hắn không muốn sống thì đời không cho hắn chết. Đến khi hắn cuối cùng, cuối cùng cũng muốn sống rồi thì cái chết lại giương dùi cui đập thẳng một phát vào gáy chấm dứt mọi thứ nhanh gọn đẹp.
Thôi thì, biết làm sao được.
Đời vốn bất công mà.
Hoặc không thì cũng là quả báo. Ai biểu hắn muốn chết lắm, muốn chết từ lâu quá rồi làm gì, cuối cùng cũng được toại nguyện đấy thôi.
.
.
.
Tobio cao vượt mẹ từ năm mười bốn tuổi. Mười sáu tuổi hắn có thể ôm gọn mẹ trong lòng mình, để mẹ tựa đầu vào vai hắn, để bà úp mặt vào vai hắn mà khóc, mà xả hết ấm ức đã dồn nén mấy chục năm nay ra khỏi người, gối cằm lên mái tóc bà.
Hắn để mẹ khóc một hồi thật dài, thật đã, khóc cho đến khi nào thấy thanh thản nhẹ nhõm, rồi mới cất lời, nhẹ nhàng chỉ ra một sự thật rõ rành rành không thể chối cãi:
"Nhưng ba cuối cùng vẫn nhất quyết theo mẹ về đây đấy thôi."
.
.
.
Phi Hùng có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, ba hắn không hồi hương.
Ba hắn quyết định ở lại Đức. Tiếp tục công việc ở nhà máy điện hạt nhân ở Biblis đúng ngành đúng nghề của ông hơn là công việc bàn giấy đơn điệu lương ba cọc ba đồng ông bị đẩy vào khi về Việt Nam. Có thể sau này đi sâu hơn vào nghiên cứu về năng lượng tổng hợp hạt nhân vốn là chủ đề ông cực kỳ có tâm huyết.
Hoặc, khá hơn, ba hắn quyết tâm đuổi theo tình yêu đầu và cũng là tình yêu sâu đậm nhất của ông, sang Nhật Bản.
Trong giấc mơ ấy, hắn muốn tin rằng ông sẽ có một cuộc sống viên mãn hơn cuộc sống hiện tại bây giờ.
Trong giấc mơ ấy, có thể ông cuối cùng cũng có một thằng con trai sáng dạ kiên cường làm ông ưỡn ngực tự hào được.
.
.
.
Từ năm ba sơ trung, Tobio bắt đầu học bán thời gian chương trình thạc sĩ, về phương trình vi phân riêng phần và giải tích hàm, về tối ưu hóa phi tuyến tính và bài toán nghịch đảo. Mấy ban bộ khác cần người chạy mô phỏng và thực hiện tính toán Ichijou và Kurata gửi thằng đệ tử qua hỗ trợ nếu như nhét được vào cái lịch trình đã sẵn kín đặc của hắn và hắn cũng cố gắng hết sức có thể mà sắp xếp thời gian chạy sô. Dù sao thì những dự án ấy cũng thú vị: tính toán hệ số cộng hưởng của một cây cầu, một tuyến đường sắt trên cao, theo dõi sự chuyển động đồng bộ của các mặt trăng quanh Sao Mộc, những làn sóng dao động điều hòa đổi màu sặc sỡ như hoa nở của phản ứng Belousov-Zhabotinsky, những tia nhấp nháy đồng bộ của đom đóm và nhịp đập của trái tim trong lồng ngực. Định luật nhiệt động lực học thứ hai chỉ ra rằng mọi thứ trong vũ trụ này có xu hướng tiến về hỗn loạn; trong một hệ thống phức tạp, hỗn loạn là hiển nhiên, là chuẩn mực. Vũ trụ này có điên rồ, có rối rắm, ấy thế mà cũng có những khoảnh khắc mọi thứ đột nhiên đâu vào đấy, tuân theo một trật tự đồng bộ.
Đấy là một sự thật về tự nhiên, về vũ trụ ba đã chỉ ra cho hắn từ rất lâu, biểu diễn bằng ba máy nhịp cơ đặt trên một tấm ván chòng chành trên mấy lon nước ngọt; cho dù tần số riêng của mỗi cái là khác nhau, cho dù khởi đầu loạn nhịp đến mấy đi chăng nữa, dần dà chúng sẽ tìm được một nhịp độ chung, tự điều chỉnh bản thân mà cùng đập với nhau. Mười năm sau đấy hắn đã có thể tự xây dựng mô hình Kuramoto của riêng mình, biểu diễn hành vi đồng bộ hóa của một tập hợp lớn các bộ dao động có liên kết, dù là theo không gian hay thời gian: một tập hợp máy nhịp cơ, sự kết tinh của các phân tử nước khi chuyển từ trạng thái lỏng sang rắn, một rừng đom đóm đồng loạt lóe sáng rực rỡ như ban ngày, giây phút cây cầu dưới tác động từ bước chân của người đi bộ bắt đầu rung chuyển. Kể ra thì chúng cũng giống như chạy bộ khởi động vòng quanh sân trong mỗi buổi luyện tập bóng chuyền, người chạy nhanh hơn, kẻ chạy chậm hơn. Tobio có khả năng chạy nước rút tốt nhưng chạy bền thì thuộc hàng kém cỏi nhất trong đội, Kindaichi và Kunimi suốt ngày ngoái cổ lại kêu hắn nhanh cái chân lên. Càm ràm là vậy cơ mà hai đứa chúng nó âu cũng tốt bụng, hiểu rằng hắn thể lực yếu, thường xuyên chậm lại một chút cho hắn bắt kịp, hắn cũng gắng gượng sải chân dài hơn để ăn khớp với chúng nó. Tobio sau này chạy bộ hàng sáng với Tsukishima cũng giảm tốc để cho y theo bước cùng, đến khi y khỏe hơn, nhanh hơn thì cũng cố gắng guồng chân theo y. Mỗi cá nhân có một nhịp độ riêng, tuy nhiên nếu như có đủ đồng cảm, có đủ ý chí, dần dà rồi chúng cũng sẽ vượt qua được sự khác biệt ấy mà chuyển động được đồng bộ, hợp tác được tâm đầu ý hợp với nhau.
Trong vũ trụ này, ở mọi thang độ từ vi mô đến vĩ mô, mọi thứ nói chuyện với nhau, tương tác với nhau, cho đến khi tìm được một bản giao hưởng chung tất cả cùng có thể góp giọng vào hòa ca.
Liệu sự hòa tấu này có thể lan rộng ra nhiều vũ trụ hay không?
Các vũ trụ song song có thể tương tác với nhau, có thể ảnh hưởng lẫn nhau không?
Chúng có nói chuyện với nhau không?
Liệu Kageyama Tobio giỏi bóng chuyền và yêu bóng chuyền nọ có biết rằng ở một vũ trụ khác, có một Kageyama Tobio quằn quại thoi thóp sống dở chết dở trên sân bóng?
Liệu Kageyama Tobio giỏi bóng chuyền, yêu bóng chuyền và chỉ biết đến bóng chuyền nọ có biết rằng ở một vũ trụ khác, có một Kageyama Tobio chưa từng biết đến bóng chuyền? Rằng ở một vũ trụ khác, có một Kageyama Tobio không chỉ đơn thuần biết đến bóng chuyền?
Liệu có tồn tại một Kageyama Tobio nào đấy không biết đến bóng chuyền, cũng chẳng giỏi toán gì cho cam?
.
.
.
Kageyama Chihiro có một giấc mơ.
Trong giấc mơ ấy, bố không ốm nặng. Bà không cần phải tức tốc chạy về nước. Bà không cần phải quay trở lại Nhật. Bà có thể tiếp tục ở lại cái chốn giờ đã trở nên thân thuộc đầy mến thương còn hơn cả quê nhà thật sự.
Trong giấc mơ ấy, hai vợ chồng tiếp tục sinh sống và làm việc tại Đức. Đến khi hạ sinh con gái đầu lòng thì nhập tịch. Emilia vừa xinh xắn như thiên thần, vừa nhanh nhẹn tháo vát. Tám năm sau đấy, họ chào đón một bé trai giống Kai như lột và xán lạn hơn tất cả những người khác trong nhà cộng lại. Tobias là một thiên tài toán ngàn năm có một, biết tính toán cộng trừ nhân chia trước khi biết đọc, năm tuổi đã có thể thực hiện những phép toán khổng lồ bảy, tám chữ số trong đầu chỉ mất vài tích tắc, mười tuổi thì học thêm toán ở trường dự bị đại học vào buổi tối, mười hai tuổi thì giải bài tập về nhà toán của chị gái lúc ấy đã học đại học như uống một ngụm nước lã.
Tuy nhiên ông trời không cho ai tất cả.
Khi Tobias năm tuổi, Kai và Chihiro có thỏa thuận tối trọng tiếp theo trong mối quan hệ của họ sau hợp đồng hôn nhân. Đấy là câu hỏi mà ai ở đến tuổi trung niên rồi cũng sẽ phải đối mặt: cái gì quan trọng hơn với mày, tiền tài sự nghiệp hay gia đình con cái và cuộc sống riêng của bản thân?
Trong giấc mơ ấy, Chihiro tiếp tục bôn ba nơi thương trường, nơi sàn chứng khoán.
Trong giấc mơ ấy, Kai thôi việc ở nhà máy điện hạt nhân, chuyển qua làm nghiên cứu ở viện Jülich. Về khoản lương lậu thì chẳng khác gì từ voi xuống chó, tuy nhiên công việc phân tích viên tài chính của Chihiro lúc ấy đang được đà thăng tiến như vũ bão, thừa sức chu cấp cho cả gia đình; về khoản thời gian và mức độ an toàn nghề nghiệp thì hiển nhiên là ăn đứt chỗ cũ. Chihiro vẫn cố gắng thu xếp có mặt ở bên hết sức có thể, tuy nhiên Kai mới là người đưa đón con cái, mới là người đi họp phụ huynh cho con, mới là vị phụ huynh hai đứa nhỏ tìm đến mỗi khi có bài tập khó, mới là người lái xe chở Mia đi chơi với bạn bè và đưa Tobias đi khám định kỳ mỗi quý một lần, mới là người luôn luôn hiện diện ở các cuộc thi đấu tài năng của con gái và những cuộc thi Olympiad Toán của con trai.
Trong giấc mơ ấy, Mia tốt nghiệp từ trường đại học y danh tiếng cùng thành phố vợ chồng họ theo học năm nào. Cô gái nhỏ rồi sẽ trở thành chuyên gia chẩn đoán dị tật tim hàng đầu đất nước ở tuổi ba mươi tư. Có điều đến lúc đấy thì lý do cho mọi nỗ lực trong ngành y của cô đã không còn trên đời này được một thập kỷ rồi.
Trong giấc mơ ấy, mặc cho mọi cố gắng họ bỏ ra, mặc cho mọi lời cầu nguyện hy vọng kỳ tích sẽ xảy ra, Tobias chỉ cầm cự được đến năm mười sáu tuổi.
Tobio tin rằng đáng ra họ nên chọn chính mình. Đáng ra ba mẹ nên chọn nhau, chọn những người có khả năng sống lâu hơn, có khả năng đi cùng với họ đến tận cuối đời. Đáng ra chị gái hắn nên theo đuổi đam mê thật sự của mình thay vì phí hoài tuổi thanh xuân nơi trường y và bệnh viện căng thẳng tang tóc. Đừng chọn một thằng ngay từ khi sinh ra đã định mệnh là sẽ chết yểu.
Tobio biết rằng mẹ cảm thấy đặc biệt tội lỗi cắn rứt với hắn. Bệnh tình của hắn dù sao cũng là di truyền từ bên ngoại, hắn xui xẻo hơn chị gái hắn trong màn quay sổ xố di truyền. Ông ngoại và mẹ thì không biểu lộ triệu chứng, sống như người bình thường khỏe mạnh. Hắn ban đầu cũng không. Cơ mà cái bệnh này cũng khó đoán khó lường, có những kẻ cả đời chẳng làm sao tự dưng đến một ngày đẹp trời nào đấy lại lăn đùng ra chết không kịp ngáp. Hắn là kẻ xui xẻo nhất và cũng là may mắn nhất trong cả ba người trong màn quay sổ xố phát bệnh—bởi vì hắn phát bệnh nên mới biết là gia đình có tiền sử quái thai hiểm nghèo như thế.
Từ khi còn nhỏ, Tobio đã hiểu rằng mẹ đặc biệt tội lỗi cắn rứt vì đã truyền cho hắn căn bệnh này, lại càng vạn phần đau khổ xót xa hơn mỗi khi thấy con trai túm ngực thở khò khè trong khi mình thì không hề hấn gì hết. Hiểu rằng mẹ rời bỏ ánh hào quang khi vẫn còn ở trên đỉnh cao sự nghiệp và rồi sẽ còn vươn cao, vươn xa hơn nữa, hiểu rằng mẹ vẫn nhận thêm yêu cầu tư vấn bên ngoài để chi trả tiền thuốc thang khám bệnh, hiểu rằng mẹ vẫn ôm hắn vào lòng hằng đêm và ở bên cạnh giường hắn cho đến khi hắn chìm sâu vào giấc ngủ nhọc nhằn, hiểu rằng mẹ mang hắn theo lên giảng đường để trông chừng hắn phòng trừ bất trắc, tất cả là để bù đắp cho hắn. Ngay cả khi hắn đã lớn hơn, cao lớn hơn cả mẹ, ngay cả khi sức khỏe hắn đủ ổn định để chơi bóng chuyền và thậm chí còn đưa đội mình đến chức vô địch khu vực, thậm chí còn thi đấu ở đấu trường quốc gia, bà vẫn giật mình cuống quýt hết cả lên mỗi khi hắn húng hắng ho, vẫn nấu cơm tẩm bổ cho hắn vào những ngày hắn về muộn cho dù bản thân bà cũng đã thân tàn lực kiệt và hắn hoàn toàn biết cách tự chăm sóc cho bản thân, vẫn càu nhàu về việc hắn tập muộn, tập nhiều, sợ hắn tập quá sức, quá căng thẳng, quá nhiều áp lực dồn vào bóp nghiến lấy trái tim vốn đã tật nguyền yếu ớt.
Cho dù bà không cần phải làm vậy. Cho dù bà không cần phải tự làm khổ mình đến vậy. Đành rằng bệnh bà không nặng, không để lộ triệu chứng và bà có thể chung sống với nó trong hòa bình, có thể sống như người khoẻ mạnh bình thường, bác sĩ cũng đã khuyến cáo rằng bà nên cẩn thận, đặc biệt là sau khi ông ngoại lên cơn đột quỵ kéo theo suy tim mà qua đời. Sau một cuộc đời đầy sóng gió, bà xứng đáng có được chút bình yên, được chút nào hay chút ấy.
Tobio cũng đã thẳng thừng nói với mẹ như thế. Cơ số lần. Hai mẹ con cũng đã cãi nhau về việc này. Cơ số lần.
Đấy là một trong những thứ hiếm hoi có lẽ hai mẹ con hắn sẽ chẳng bao giờ có thể tâm đầu ý hợp với nhau được. Nếu như định mệnh đã an bài từ trước rằng hắn sẽ phải chết, không phải như hắn có thể thay đổi được điều gì. Chi bằng sống cho thật tốt, cho thật thỏa đáng, làm được càng nhiều việc càng tốt trước khi quỹ thời gian ít ỏi của hắn cuối cùng cũng cạn kiệt.
Quan điểm của mẹ khác hẳn. Sinh con ai nỡ sinh lòng, sinh con ai chẳng vun trồng cho con: mẹ muốn hắn sống lâu nhất có thể, sống yên ổn nhất có thể, sống cuộc đời viên mãn nhất có thể. Không ai lại muốn phải chôn cất quan tài của chính con mình cả, mẹ đã sẵng giọng dằn mặt với hắn như vậy qua hai hàng nước mắt đầm đìa trên má khi hắn cuối cùng cũng tỉnh dậy và tìm thấy mình không còn ở nhà thi đấu thành phố nữa, mà là đang nằm bẹp trên giường bệnh viện. Lần cuối cùng hắn thấy mẹ khóc là vào đám tang của ba.
Mẹ đã đủ khổ rồi. Hắn không muốn để bà phải đau đớn thêm nữa.
Kể từ lần ấy, hắn quyết định không đả động gì đến nó nữa.
Cho đến lúc này.
.
.
.
Đêm hôm ấy mẹ khóc rất nhiều. Tobio chưa bao giờ thấy mẹ khóc nhiều đến thế, cho dù bà đã trải qua không biết bao nhiêu vận hạn khiến người bình thường nản lòng chùn bước. Mẹ hắn thì không. Mẫu thân mà hắn biết cả cuộc đời là một trong—không, là người mạnh mẽ kiên cường nhất mà hắn biết.
Chỉ là, ngay cả những người mạnh mẽ kiên cường nhất rồi cũng có giới hạn của họ.
Thực tế, hắn ngạc nhiên hơn là bà chịu đựng được đến tận bây giờ. Còn ngạc nhiên hơn nữa khi bà chọn hắn—thằng con trai nhỏ yếu tim cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, là nỗi quan ngại khổ tâm lớn nhất đời bà hiện nay—mà trút bầu tâm sự, chọn hắn làm tai nghe xả bao uất ức căm hờn mấy chục năm nay không hề hé miệng phàn nàn với ai lấy một lời.
Cho đến khi hắn chợt nhận ra, tim nhói lên đau đớn xót xa. Ông ngoại và ba đều không còn tồn tại trên cõi đời này nữa. Miwa sinh sống và làm việc ở Tokyo.
Nhà neo người. Chỉ có hai mẹ con hắn với nhau trong căn hộ ba phòng ngủ kế bên khuôn viên Aobayama của Đại học Tohoku này.
Không phải như họ hiểu công việc của mẹ, không phải như họ có chung tâm huyết với mẹ về toán và những bài toán kinh tế định lượng.
Làm toán thật sự rất cô độc, mẹ đã từng bảo với hắn—cảnh cáo hắn như vậy. Không phải ai cũng sẽ hiểu công việc của họ, không phải ai cũng sẽ thấu hiểu được những gì họ làm và tại sao họ lại đi đâm đầu vào một cái ngành cứng nhắc, khô khan, khó hiểu và trừu tượng xa vời với thực tiễn như thế. Đồng nghiệp bè bạn trong ngành dù có thân thiết đến mấy đi chăng nữa, không phải ai cũng hiểu được công trình nghiên cứu của bà về mô hình biến động thô trong định giá quyền chọn và quản lý rủi ro, về các phương trình vi phân ngẫu nhiên phân số (FSDE) trong mô hình hóa động lực thị trường, đặc biệt là đối với giao dịch tần suất cao và định giá phái sinh; không phải ai cũng hiểu được quyết định rời bỏ thương trường, rời bỏ sàn chứng khoán, rời bỏ vị trí phân tích viên tài chính định lượng đang rất được trọng vọng của bà để về đi dạy một đám không còn là trẻ con nhưng cũng chẳng phải người lớn hoàn toàn; không phải ai cũng hiểu được cảm giác vừa mất đi tri âm tri kỷ đời mình, vừa mất cha, lại còn suýt mất luôn cả đứa con nhỏ chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi ra sao. Ngay cả hắn, là đứa thân với mẹ hơn, là đứa nối nghiệp toán của mẹ, cũng không thể nào hiểu được hoàn toàn nghiên cứu của bà, lại càng không thể hiểu được những gì bà đã trải qua.
Tất cả những gì hắn có thể làm là cố gắng học hành, cố gắng giữ gìn sức khỏe để bà khỏi cần phải lo lắng nhiều, là quán xuyến việc nhà khi bà bận việc ở trường đại học và những công việc làm thêm bên ngoài, là ở bên cạnh bà vào những buổi tối yên tĩnh giá lạnh để ít nhất bà không có một mình, là lắng nghe bà thuyết giảng về những sản phẩm kinh tế phái sinh, về những mô hình kinh tế ngẫu nhiên, về những tiểu tiết tinh tế trong động lực của thị trường chứng khoán, tạp âm phân số ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tần suất cao ra sao, liệu các mô hình phân số có thể vượt trội hơn các mô hình cổ điển về khả năng dự đoán các sự kiện thị trường cực đoan không, FSDE có thể giải thích như thế nào về nhiều tài sản tương tác hoặc thị trường đa chiều, tại sao người ta có thể sẽ chẳng bao giờ có thể dự đoán được chính xác một trăm phần trăm thị trường sẽ biến động ra sao bởi lẽ nền kinh tế cũng là một hệ thống phi tuyến tính phức tạp có xu hướng tiến về hỗn loạn.
Tất cả những gì hắn có thể làm là thực hiện các phép tính khổng lồ và thiết kế các thuật toán hỗ trợ bà, bởi vì dù sao đi chăng nữa giải tích số vẫn là sở trường của hắn, phương pháp số dành cho các bài toán tối ưu hóa, dành cho các mô hình, các hệ thống động lực học phức tạp vẫn là trọng tâm chuyên môn của hắn. Hắn có thể không hiểu những bài toán hóc búa ấy một trăm phần trăm, ngay cả bản thân mẹ cũng không có câu trả lời thỏa đáng cho tất cả những thắc mắc của hắn, nhưng họ có thể cùng nhau tìm hiểu và nghiên cứu thêm.
Tất cả những gì hắn có thể làm, là ở bên bà, lâu nhất có thể. Bởi vì dù sao đây cũng là mẹ hắn, là người phụ nữ đã phải hy sinh quá nhiều, đã phải đau khổ quá nhiều vì hắn, là người phụ nữ yêu hắn vô điều kiện, yêu hắn hơn bất kỳ ai khác trên thế gian này. Âu cũng là công bằng rằng hắn nên cố gắng đền đáp tình yêu và nỗ lực của bà hết sức có thể, cho dù hắn không bao giờ có thể trả hết nợ được, có khi càng ngày lại còn càng nợ nhiều hơn.
Ấy vậy mà khi hắn hỏi câu hỏi hắn vẫn luôn muốn hỏi từ rất lâu, rằng mẹ có hối hận vì đã rút về nhậm chức giáo sư khi vẫn còn đang ở đỉnh cao sự nghiệp và rồi sẽ còn tiến lên được cao thêm nữa, chỉ để có thể ở gần trông nom thằng con ốm yếu—rằng mẹ có hối hận vì đã sinh ra hắn, một đứa trẻ hay đau ốm phiền phức, một đứa trẻ định mệnh là sẽ chết yểu, một đứa trẻ rồi cũng bỏ bà ra đi—, mẹ đã chau mày, đưa tay lên khum má hắn, bắt hắn phải nhìn thẳng vào bà, nhìn thẳng vào đôi mắt xám bạc đanh thép, sắc sảo và ngời sáng như lưỡi dao bạc có thể diệt trừ mọi ác ma và quái vật.
"Thôi cái kiểu suy nghĩ bi quan vô vọng đấy đi," mẹ quở trách, không biết đến lần thứ bao nhiêu rồi. "Mẹ nuôi mày đã sống được đến chừng này, lớn được đến chừng này rồi còn gì nữa."
Tobio cắn môi.
"Nhưng con vẫn có thể chết bất cứ lúc nào," hắn run rẩy thì thầm qua cục nghẹn đắng nghét mắc kẹt trong cổ họng. Cả mẹ cũng vậy. Cả hai người bọn họ có thể chết bất cứ lúc nào. Nhìn ông ngoại, nhìn ba thì biết. Huống chi xác suất tim họ vào một ngày đẹp trời nào đấy tự dưng quyết định đình công còn cao hơn người bình thường rất nhiều.
Mẹ vòng tay qua ôm hắn, ôm thật chặt tưởng chừng như không muốn buông, đầu gối lên hõm vai hắn và hắn cảm tưởng như đã quay trở lại hồi sáu tuổi, viêm họng chuyển sang thấp khớp cấp di chứng sang van tim càng dồn thêm áp lực lên trái tim đã vốn khuyết tật, cứng nhắc và thiếu máu, sốt cao đến mức mê sảng đã thều thào hỏi mẹ, có phải con sắp chết rồi không, và mẹ đã bồng hắn gọn trong lòng, ấp ủ hắn trong lòng nguyên một đêm dài, dẫu hắn giờ đã cao lớn hơn mẹ, không còn chui vừa lọt trong lòng mẹ từ lâu rồi.
Hắn gối cằm lên đỉnh đầu mẹ.
"Mày sẽ sống được đến tuổi mười bảy," mẹ vẫn quả quyết, giọng chắc nịch như đinh đóng cột. Đấy là một lời hứa. Đấy là một sự thật hiển nhiên. Đấy là một lời chống đối, là một lời khai chiến dõng dạc đầy gan góc với định mệnh. "Mày sẽ vào được đại học, rồi tốt nghiệp được, có bằng cử nhân, cả thạc sĩ lẫn tiến sĩ nữa nếu mày muốn. Mẹ đảm bảo đấy."
.
.
.
Thuật toán giá trị riêng đầu tiên Tobio được học là phép lặp lũy thừa, hay còn được gọi là phép lặp Von Mises, cho ra vector riêng chính là vector riêng tương ứng với giá trị riêng có giá trị tuyệt đối lớn nhất. Ấy là một thuật toán cực kỳ đơn giản—mày chỉ cần một vector mồi, mỗi vòng lặp nhân vector với ma trận và chuẩn hóa nó, chấm hết—và có tốc độ hội tụ khá rùa bò, đặc biệt là khi có tồn tại một giá trị riêng rất gần với giá trị riêng lớn nhất cần tìm. Đây chắc chắn không phải là phương pháp hiệu quả nhất, tuy nhiên vẫn phù hợp và hữu ích cho một số bài toán nhất định: đây là thuật toán đằng sau PageRank của Google để xếp hạng các tài liệu trong công cụ tìm kiếm và Twitter sử dụng nó để gợi ý cho người dùng nên theo dõi những ai. Giá trị riêng lớn nhất có tầm quan trọng đặc biệt vì nó chi phối hành vi dài hạn của hệ thống sau nhiều lần áp dụng phép biến đổi tuyến tính và vector riêng đi kèm là trạng thái ổn định của hệ thống.
Trong trường hợp cầu Thiên Niên Kỷ, giá trị riêng chính tương ứng với chế độ rung bên có tần số phù hợp với tần số bước chân của người đi bộ, và sự cộng hưởng này gây ra chuyển động ngang đồng bộ, khuếch đại dao động thông qua một vòng phản hồi tích cực, dẫn đến cái tình cảnh chòng chành khó đỡ ngày khánh thành.
Đến giờ dân London vẫn gọi nó là "Cầu Lắc lư".
Đấy là một trong những cuộc thảo luận cuối cùng Tobio có với ba, về một bài tập áp dụng thực tiễn trong lớp Giải tích Số 3, tính tần số riêng và các mốt rung động của cây cầu với mọi thông số cần thiết đã được biểu diễn gọn gàng trong những ma trận. Tobio có thể không giỏi vật lý, tuy nhiên biểu diễn các hiện tượng vật lý bằng các công thức toán, các mô hình toán học thì hiểu vấn đề ngay lập tức: m là ma trận khối lượng, k là ma trận độ cứng, đáp án khả dĩ là sự kết hợp tuyến tính của các giải pháp cho bài toán giá trị riêng tổng quát kx = ω^2mx, với ω^2 là giá trị riêng của hệ thống, ω là tần số góc (ảo). Hơn nữa, dao động cưỡng bức có thể được cho bởi mx'' cx' kx = 0, dẫn đến bài toán giá trị riêng bậc hai (ω^2m ωc k)x = 0, có thể được đơn giản về một bài toán giá trị riêng tổng quát bằng các biến đổi đại số nhưng phải giải một hệ lớn hơn. Tính trực giao của các vector riêng x cho phép tách các phương trình vi phân sao cho hệ có thể được biểu diễn dưới dạng tổng tuyến tính của các vectơ riêng. Bài toán giá trị tổng quát của các cấu trúc phức tạp thường có thể được giải bằng phương pháp phân tích phần tử hữu hạn, nhưng khái quát hóa gọn gàng giải pháp cho các bài toán dao động có giá trị vô hướng.
Tobio có thể không giỏi vật lý, tuy nhiên biểu diễn các hiện tượng vật lý bằng các công thức toán, các mô hình toán học thì hiểu vấn đề ngay lập tức. Ngay cả khi đấy là thể loại vật lý tầm cỡ như cơ học lượng tử: mày hoàn toàn có thể giải phương trình Schrödinger, là phương trình trọng tâm của cơ học lượng tử, bằng cách coi nó như một bài toán giá trị riêng—chí ít là dạng không phụ thuộc vào thời gian, dùng để xác định trạng thái tĩnh, hay các mức năng lượng của hệ thống lượng tử: H^ψ=Eψ, với H là toán tử Hamilton biểu diễn tổng năng lượng của hệ, tổng của toán tử động năng T và toán tử thế năng V; ψ là hàm sóng của hệ, một hàm riêng của H; và E là giá trị riêng, biểu diễn năng lượng của trạng thái lượng tử được mô tả bởi ψ. Có nghĩa là áp dụng toán tử Hamilton cho hàm sóng ψ sẽ cho kết quả là cùng một hàm được chia tỷ lệ theo năng lượng E. Giải bài toán trị riêng này sẽ cho kết quả bao gồm một tập hợp các giá trị riêng E_n mô tả các mức năng lượng lượng tử của hệ thống và một tập hợp các hàm riêng ψ_n là các trạng thái dừng tương ứng. Ví dụ tính toán trạng thái một hạt bị giới hạn trong một hộp một chiều với các thành có điện thế vô hạn với V(x) bằng 0 khi hạt nằm trong hộp và V(x) tiến tới vô cực khi nằm ngoài hộp, các điều kiện biên buộc hàm sóng bằng 0 tại các bức tường. E_n = (n^2*π^2*ℏ^2)/(2mL^2), với ℏ là hằng số Planck rút gọn, m là khối lượng của hạt và L là độ rộng của hộp; E1 = (π^2*ℏ^2)/(2mL^2) là năng lượng của hạt ở trạng thái cơ bản, chắc chắn là một số dương.
Con mèo vẫn còn sống khi mày bỏ nó vào hộp cùng với vật chất phóng xạ, ống đếm Geiger và lọ thuốc độc.
Hai cha con vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc đã tới bến tàu. Là bến Aobayama trước khuôn viên chính của Đại học Tohoku, là bến tàu hằng ngày hắn vẫn ra đợi tàu đến trường, là bến hắn xuống để về nhà.
Ngồi xổm bên cạnh cái hộp đặt ở chân băng ghế chờ, Tobio quay đầu ngửa cổ lên nhìn ba.
"Ba nghĩ con mèo còn sống hay đã chết?"
Ba mỉm cười. Trông ông y hệt như lần cuối cùng hắn nhìn thấy ông còn sống và khỏe mạnh, mặc một chiếc áo sơ mi xanh như sắc hoa xin-đừng-quên-tôi, xanh y như đôi mắt ông và ông chuẩn bị lên đường ra nhà ga trung tâm Sendai bắt chuyến tàu tốc hành đầu tiên trong ngày quay trở về Fukushima sau ngày nghỉ cuối tuần, đi để rồi không bao giờ trở lại nữa.
"Con nghĩ sao?"
Tobio nhún vai.
"Xác suất tia phóng xạ phát ra là 50-50, tức là xác suất con mèo vẫn sống hay đã chết khi mở hộp cũng là 50-50."
50% không phải là một tỷ lệ quá tệ. Một tỷ lệ tương đối cao, tương đối lạc quan là đằng khác.
Chỉ là tỷ lệ chết cũng nhiều tương đương.
Tobio đưa mắt dõi theo đường dây biến mất dần vào đường hầm sâu thẳm hun hút. Ở cuối đường hầm le lói ánh sáng, là ánh đèn tàu điện chuẩn bị cập bến. Con tàu này trông giống y hệt như con tàu hắn vẫn thường dùng để đi tới trường.
Tàu đỗ lại ở sân ga với một tiếng thở dài.
Cửa mở.
Tuyến tàu điện không người lái đầu tiên ở Nhật Bản là Port Liner, cũng là tuyến GoA4 đầu tiên trên thế giới, khánh thành vào ngày mùng Năm tháng Hai năm 1981. Tới giờ ở Nhật có tổng cộng chín hệ thống tàu điện tự động như vậy, tuyến mới nhất là Nippori-Toneri bắt đầu vận hành vào 30 tháng Ba năm 2008.
Tuyến tàu Tobio vẫn hay đi thì chắc chắn là không phải là loại tàu tự động.
Hắn không thấy ai ở buồng lái đầu tàu hết.
Ba thụp xuống bên cạnh hắn. Đặt một bàn tay chai sạn mà ấm áp lên vai hắn.
"Con muốn con mèo đã chết hay vẫn còn sống?"
.
.
.
Ngày cuối cùng của học kỳ một, năm đứa chúng nó rủ nhau vào trung tâm Sendai chơi. Yachi bảo rằng có một quán café mèo muốn ghé qua ngắm nghía thử, và những gì Yachi muốn thì hiển nhiên là bốn tên còn lại sẽ chiều theo.
Đám mèo, không mấy ngạc nhiên, bu lấy Yamaguchi, tranh nhau đòi cậu ta xoa đầu vuốt ve; Tobio ý tứ lấy tay che cái miệng đang ngoạc ra nham nhở trước vẻ mặt trúng bùa yêu đến ngẩn người của cô bạn thân khi ngắm nhìn bạn trai cưng nựng một bé mèo lông xám như khói thuốc. Hinata thì cầm lấy một cái gậy lông chơi trò đuổi bắt với một con mèo hung đỏ tăng động.
Tsukishima...
Vì một lý do nào đấy, Tsukishima đang ngó chằm chằm một nhóc mèo đen với chân và bụng trắng muốt như đi tất và đeo yếm, kích cỡ chắc bằng một phần mười y. Con mèo bé như cái kẹo kia thế mà gan hùm, cũng trừng cặp mắt sáng rực rỡ như sao siêu khổng lồ xanh trông lại không nhún nhường.
Trong miệng nó là tất bên trái của y.
Vẫn là một thằng cơ hội như thường lệ, Tobio nhanh tay rút điện thoại chụp ngay một kiểu.
Tiếng tách của máy ảnh đánh động Tsukishima, làm y quay ngoát đầu về phía Tobio với một tốc độ chóng vánh đến mức tưởng như đầu y lìa khỏi cổ được, bắn cho hắn một cái nhìn tóe lửa có thể đốt cháy hắn thành tro ngay tại chỗ là lời cảnh cáo cuối cùng trước khi nhảy chồm về phía hắn. Tobio từng bị y đè cả người lên trước đây, nhưng hồi đấy là vô tình, khác hẳn lần này là y đang cố ý lợi dụng kích cỡ quá khổ hơn hắn để ghim chặt hắn xuống sàn.
"Xóa ngay!" Tsukishima rít lên, chộp lấy cổ tay đang giữ điện thoại của hắn.
"Thế thì thả tôi ra!"
Tất nhiên là Tsukishima không thả hắn ra, thậm chí còn giữ hắn chặt hơn, kéo mạnh tay hắn. Dạo này y có cơ bắp, có sức lực hơn, tập bóng chuyền với y hằng ngày hắn biết quá rõ, tuy nhiên hắn không tưởng tượng là y khỏe đến mức này, hắn giãy giụa vùng vẫy thế nào cũng không thoát ra được.
May là hắn không có một mình.
Có ai đấy nhấc điện thoại khỏi tay hắn. Tựa hồ mắt mèo dõi theo chuột chạy, mắt Tsukishima dán chặt lấy thiết bị giờ nằm trong tay Yamaguchi. Yamaguchi chỉ kịp chuyền qua cho cô bạn gái trước khi đến lượt cậu ta bị thằng bạn nối khố hành hung. Trò chuyền điện thoại đến đây là chấm dứt, bởi vì còn lâu Tsukishima mới dám hung bạo động chạm Yachi như với hai thằng bạn thân trời đánh.
Và Yachi thừa biết điều đó. Cũng biết lợi dụng nó triệt để mà làm việc xấu tính.
"Tadashi-kun, giữ Tsukishima-kun lại," cô nàng bình thản hạ lệnh. "Tobio-kun, mật khẩu máy cậu là gì?"
Tobio bật dậy, thở hổn hển, "Hằng số Feigenbaum thứ nhất."
Yachi nhăn mặt không hiểu. "Là cái gì?"
Hắn lồm cồm bò tới chỗ cô bạn thân. "Đưa đây." Hắn nhập 4 6 6 9 mở khóa điện thoại, và tranh thủ lúc Yamaguchi vẫn còn đang vật lộn giữ Tsukishima bận rộn, phát tán tấm ảnh vừa chụp được lên group chat đội bóng chuyền Karasuno.
Điện thoại chúng nó đồng loạt réo inh ỏi thông báo tin nhắn mới từ đồng đội cũng đang cười trên nỗi đau khổ của Tsukishima.
Biết rằng mình đã thua toàn tập, cố gắng nữa cũng chẳng để làm gì, Tsukishima thả Yamaguchi ra, ngồi phịch xuống sàn, mắt vàng nheo lại đảo qua đám bạn thất đức một lượt đầy hằn học uất ức. "Tôi ghét mấy người."
"Tụi này cũng quý cậu lắm, Tsukishima," Hinata líu lo đáp lại, trông xuống tấm ảnh dìm công tử thường ngày bá đạo ngạo kiều lại càng được thể cười khành khạch khoái trá hơn. "Quý lắm luôn ấy."
"Không cần cái quý của cậu, cảm ơn nhiều," Tsukishima khạc lại, nói đoạn đưa tay nhấc cái ngọn nguồn của toàn bộ trò mèo này lên đặt vào trong lòng. Con mèo nhỏ ngọ nguậy chui ra. Nó cũng không đi đâu xa, nhảy lên một miếng đệm ngay sát ống đồng Tsukishima, cơ thể tí hon gần như không lún nổi lớp vải nhung bọc, nhả chiếc tất ra khỏi miệng và bắt đầu nhào nhào nó, đáp lại cái quắc mắt cắn cảu của Tsukishima bằng một cái nhìn chòng chọc đầy thách thức, đầy đánh giá.
Tsukishima đưa tay lại gần.
Con mèo nhe nanh xòe vuốt, khè cho y một phát hăm dọa.
Tsukishima biết điều thu tay về.
Bốn đứa còn lại phụt cười.
"Thôi cố gắng làm gì nữa," Yamaguchi khuyên nhủ. "Kệ nó đi."
"Cậu bảo tôi đi giày một chân tất một chân trần về nhà ấy hả?" Tsukishima làu bàu.
Hinata khịt mũi. "Cậu thừa tiền mua một chồng tất mới mà." Nói đoạn cậu ta lấy cây gậy lông khều khều con mèo. Nó phẩy đuôi qua lại đuổi Hinata đi như đuổi một con ruồi phiền phức, cắn ngập răng vào tất mà kéo, như thể cái vật vô tri đó đã xúc phạm nhân phẩm nó lắm không bằng.
Ấy thế mà Yachi vẫn xuýt xoa, "Nó xinh thật đấy," cho dù cố gắng lại gần bế nó lên của cô nàng cũng không khá khẩm hơn Tsukishima là bao, Yachi suýt soát vừa kịp rút lui trước khi bị nó cạp cho một cái.
Có thể nhận định rằng con này thuộc dạng không thích người.
Hinata ngồi bó gối ở một khoảng cách vừa đủ, chống cằm lên đầu gối ngắm mèo con nghịch tất. Mắt nâu dần nheo lại. Cậu ta ngoảnh qua Tobio, ngó hắn một chốc, xong quay về con mèo. Xong lại quay qua hắn. Xong lại quay về con mèo. Đảo nhiều đến mức người nhìn vào cũng chóng hết cả mặt.
Đảo qua đảo lại một thôi một hồi chán chê, "Nó trông giống cậu thật đấy, Kageyama," cậu ta, như thường lệ, hồn nhiên phán một câu rất thật thà mà cũng vạn phần ngứa đòn như thế.
Tobio chau mày, vừa khó hiểu, vừa khó chịu. "Cái mẹ gì đấy?"
"Nhìn mà xem."
Hinata vươn người qua nhấc bổng con mèo lên gí trước mặt Tobio. Con vật nhỏ hiển nhiên là không khoái tỷ gì với việc tự dưng bị bốc đi như thế, ngao ngao inh ỏi cả lên, chân quơ quào loạn xà ngầu cố gắng thoát khỏi cái nắm giữ vô duyên vô cớ của thằng đầu quýt, hung dữ cào cho Hinata một phát vào tay làm cậu ta ré lên đau điếng, thả nó ra. Đành rằng mèo có rơi ngã bao giờ cũng đáp đất được bằng tứ chi không cần sợ, tuy nhiên nếu rớt là rớt trúng xuống cái bàn đầy cốc, theo phản xạ tim Tobio thót lên một cái đau nhói và hắn hối hả đưa tay ra đỡ lấy con mèo.
Mèo nhỏ đã không thích bị động chạm lại còn bị vần như bột nhào, kêu meo meo mấy tiếng đầy tủi thân trách cứ, đuôi dựng lên vung vẩy qua lại. Hắn nhẹ nhàng hạ nó xuống, gãi gãi sau tai nó dỗ dành, "Sshh, không sao đâu."
Mèo con phát ra mấy tiếng làu bàu phụng phịu, cuộn tròn thành một quả bóng lông nhỏ trong lòng hắn, cơ mà vẫn phải quắc mắt hằm hè với cái tên vừa bắt nạt mình mới được.
Tạm dỗ yên được nạn nhân, Tobio cũng ngẩng đầu lên bắn cho thằng bạn hay vung chân vung tay quá trớn một cái lườm thâm sì. "Nhẹ tay thôi. Nó là sinh vật sống, không phải quả bóng chuyền."
Hinata đến thế mà vẫn còn chưa biết tội, thậm chí còn giơ ngón trỏ chỉ thẳng vào mặt Tobio đầy cáo buộc. "Coi kìa, tớ nói có sai không?"
Ba cặp mắt còn lại đổ dồn vào hắn đầy soi mói. Đành rằng chúng nó toàn là bạn bè hắn cả, tuy nhiên tự dưng có toàn bộ sự chú ý thập phần đánh giá trong phòng ghim hết vào mình như vậy vẫn oan ức bất công hết sức, Tobio cố gắng kìm nén cảm giác muốn lủi đi trốn, thu mình lại.
"Ừ đúng thật," Yachi trầm trồ thốt lên.
Yamaguchi gật gù, rất lấy làm tâm đắc. "Cái mặt quàu quạu với ánh mắt chòng chọc của hai đứa thật là y xì đúc nhau luôn á."
Tsukishima cong môi cười khẩy, tay nhấc cốc cà-phê của y lên. "Không phải tính khí cậu ta bình thường cũng cục súc như mèo hoang rồi sao?"
Hinata vỗ đùi đánh đét một cái. "Nói chí phải, Tsukishima!"
Thôi bỏ đi: Tobio không có bạn bè gì hết.
Có gì đấy cào cào lên ống quần hắn. Hắn trông xuống, đưa tay lên xoa đầu con mèo. Nó nhắm mắt, bắt đầu rên rừ rừ cực kỳ hưởng thụ và cơn bực dọc trong lồng ngực hắn tan dần và bốc hơi đi mất như vũng nước đọng ở ổ gà trên đường dưới ánh mặt trời giữa trưa hạ chói chang.
Hắn cho phép khóe môi hơi cong lên, vuốt một đường dài dọc thân con mèo, kéo ra được một tiếng rừ rừ khoan khoái nữa.
"Thật không công bằng," Hinata (lại) bắt đầu ngoạc mồm than vãn. "Tại sao bọn này động vào thì nó nhảy dựng lên, trong khi cậu thì thoải mái vô tư? Tớ tưởng bọn chó mèo không thích cậu."
Cảm xúc của Tobio về cái sự thật thà hồn nhiên của Hinata từ hồi nào tới giờ vẫn rất ư đối nghịch khó tả. Có lúc hắn thấy vạn phần hàm ơn với sự đơn giản vô tư ấy, làm mọi chuyện thẳng thắn minh bạch ra hơn bao nhiêu. Nhiều lúc cũng thấy vô duyên bỏ bà—đặc biệt là cái hồi Yamaguchi và Yachi vẫn còn đang vờn nhau và cậu ta cứ phải tìm cách xen vào giữa hai đứa chúng nó mới được (ừ thì Hinata cũng có cảm tình với Yachi, muốn ở bên cạnh người mình thích cũng là dễ hiểu—OK, được rồi, đây không phải là ví dụ hợp lý cho lắm) hay mấy bận—thôi được rồi, nhiều bận—Tobio bị một thiếu nữ nào đấy gọi riêng ra một bên cứ phải loi nhoi, ê, chẳng phải cậu hứa là hôm nay sẽ chuyền bóng cho tớ hay sao, ê, thế còn vụ phụ đạo toán như thế nào đấy, trước khi Tsukishima hoặc Yamaguchi giáng thẳng tay bịt miệng cậu ta túm cổ lôi xềnh xệch ra chỗ khác, chưa kể đến cái tính đã hay nói leo lại còn nói trước, làm trước rồi mới nghĩ, đơn cử là cái bận cậu ta cứ thế mà vác mặt xông thẳng vào trại huấn luyện phân khu cho dù không hề có được mời—Tobio không thể nào hiểu được bằng cách vi diệu nào đấy cậu ta thoát tội được chỉ với một cái gõ nhẹ lên cổ tay như thế, như thể cậu ta là nhân vật chính trong một bộ shounen manga nào đấy và mọi nhân vật phụ, nhân vật quần chúng xung quanh cứ để cậu ta thích làm cái gì thì làm trên danh nghĩa lên trình cho dù nó có vô lý vô liêm sỉ đến mức nào đi chăng nữa.
Hinata là một trong những người bạn thân nhất của Tobio và hắn—ừm, không đến mức chết vì cậu ta, tuy nhiên nếu như cậu ta có lỡ tay ngộ sát ai đấy với cái sự đã thừa nông nổi lại còn dư dại dột của mình thì Tobio cũng sẽ giúp cậu ta giấu xác. Có điều cũng không thể phủ nhận được là có lắm lúc hắn chỉ muốn thẳng tay hạ sát cậu ta được rồi.
Nhờ có vụ lộn xộn bát nháo vừa rồi mà Tsukishima cũng chuộc lại được đôi tất mang lại vào chân. "Ai đời lại thẳng tay đâm chọt nỗi đau khổ của người ta như thế," y tặc lưỡi, duỗi qua duỗi lại bàn chân kiểm tra xem tài sản có hư hỏng gì không để còn bắt đền. Những con người vô tư không biết, không hiểu chuyện thì sẽ tưởng là Tsukishima tốt bụng đang trách mắng Hinata trơ trẽn quá. Những kẻ thân với y rồi thì có thể nghe được cái hàm ý chạy ngầm đen sì bôi nhọ nhân phẩm người ta của y.
Thế nên Tobio quẳng lại cả vỗn lẫn lại, quẳng thẳng vào mặt luôn chứ không cần phải chui luồn cửa ngách như y, "Cái thằng bị con mèo to bằng một phần mười mình ăn trộm tất không đòi lại được không có quyền ý kiến."
Hồ như hiểu rằng mình bị xướng tên, con mèo trong lòng hắn ngóc đầu dậy, ngao một tiếng hiếu kỳ hỏi thăm. Hắn xoa nhẹ đầu nó và nó dụi lại vào lòng bàn tay hắn.
Khi hắn ngẩng đầu lên, mắt hắn đối diện với cặp mắt nâu sáng của cô bạn thân trầm ngâm quan sát từ hồi nào tới giờ.
"Cậu có muốn chơi với nó không?" hắn ngỏ lời.
Yachi lắc đầu. "Không sao. Hẳn là không phải lúc nào cậu cũng có cơ hội được chơi với mèo như thế này, đúng không?"
Tobio xì ra. "Tớ không phải như Yamaguchi, nhưng không có tệ đến mức đấy đâu." Hay ít nhất hắn muốn nghĩ thế. Bảo rằng không quan tâm đến những người xung quanh nghĩ sao, cảm thấy sao về mình không bao giờ là sự thật hoàn toàn được, căn bản đã là người ai chả muốn được yêu quý.
Đấy âu cũng là bản chất con người: ngoại trừ khi có mặt tính vị kỷ, con người dễ sa vào lưới tình hơn là lại gần ngọn lửa thù ghét. Sự thù hằn ghét bỏ, dần dà từng bước một, chậm rãi và thầm lặng, rồi cũng có thể thậm chí chuyển thành tình yêu thương, trừ phi luôn luôn có kẻ ném thêm củi vào lửa****.
Ừ thì đúng là Tobio vốn không có duyên với những con vật nhỏ như thế này thật, cơ mà thỉnh thoảng cũng có trường hợp ngoại lệ. Như điểm cực trị thay đổi chiều biến thiên của hàm số, như điểm kỳ dị nơi hàm số không xác định, không khả vi, không giải tích được, 1/x phân kỳ lao tới vô cực khi x tiến về 0, viết thuật toán cho máy tính còn phải cẩn thận đặt dung sai hợp lý để số khỏi phình tướng ra làm tràn bộ nhớ.
Bọn mèo thực ra cũng khôn lắm. Chobi nhà Narasaki-san ngày xưa biết lấy đồ được chỉ, nhận ra hắn tức ngực khó thở sẽ chạy đi tìm bà chủ đến giúp. Hotaru cũng nhanh chóng nhận ra hắn chỉ muốn giúp nó thoát nạn mà không kháng cự nữa, biết rằng nó không được vào trong nhà cũng rất ngoan ngoãn kiên nhẫn ngồi ngoài ban công đợi hắn về cho ăn, hắn bảo ngồi yên sẽ ngồi yên, bảo đi theo sẽ lon ton bám sát theo hắn, biết giơ tay lên khi hắn chìa tay ra để bắt, biết cụng nắm đấm, biết đập tay—cho dù hắn đoán hứa hẹn đồ ăn cũng là một động lực tốt mà học, mà làm cho tử tế.
Cái cục bông tí hon trong lòng hắn hẳn cũng thế. Biết là chỗ vừa ấm vừa êm lại vừa an toàn khỏi mấy bàn tay sấn sổ mạnh bạo của đám kia thì đóng đô thôi.
Tobio chống cằm, đưa đầu ngón trỏ ra trước mặt nó, để khoảng cách đúng một phân. Con mèo hít hít ngửi ngửi thăm dò một chốc, trước khi tiến về phía trước, đưa đầu lưỡi ráp ra liếm liếm mấy cái có hơi nhồn nhột.
Hắn cười toe với nó một cái, chọt nhẹ mũi nó, rồi quay trở lại gãi gãi nhẹ sau tai nó.
"Các cậu có biết là mắt xanh phổ biến ở loài mèo hơn bất cứ các loại động vật nào khác không?" Yachi lên tiếng.
Hinata tròn mắt. "Vậy hả?"
"Chẳng phải tất cả mèo con đều được sinh ra với mắt xanh hay sao?" Yamaguchi chỉ ra, tay vẫn đều đều vuốt dọc thân một con mèo tam thể bự chảng cuộn mình trong lòng cậu ta, con vật được yêu chiều rên rừ rừ rất lấy làm thỏa mãn.
"Đúng, cơ mà chúng sẽ bắt đầu đổi màu khi được khoảng bốn đến tám tuần tuổi," Yachi nói. "Có một mối liên hệ di truyền giữa màu lông và màu mắt ở mèo, và mắt xanh chủ yếu được tìm thấy ở những con mèo có bộ lông màu sáng. Vì thế nên một con mèo đen tuyền với đôi mắt xanh thẳm gần như là một ngoại lệ của quy tắc." Cô nàng nhíu mày, với tay qua cầm cốc cà-phê của mình lên. "Tớ nhớ ở Mỹ có một giống mèo hiếm luôn luôn có mắt xanh to tròn còn hơn cả mèo Siamese bất kể là lông màu gì đi chăng nữa, cũng không bị điếc hay lác trong, tuy nhiên bởi vì những khiếm khuyết di truyền gây tử vong mà người ta không phối giống này nữa."
Nghe vậy Hinata, không mấy bất ngờ, ỉu xìu. "Đáng tiếc thật đấy."
Yachi nhún vai một cái. Vai cô chùng xuống thấp hơn một chút so với ban đầu. Cô đưa cốc lên miệng, nhấp một miếng. Khi cô hạ xuống, đôi mắt nâu trông vào trong lòng cốc. "Người ta vẫn có câu đẹp cũng là đau khổ mà."
Hinata nghiêng đầu. "Ý cậu là 'hồng nhan bạc mệnh'?"
Yachi bật cười, ít nhiều trào phúng, ít nhiều tự hào vì bao công sức cô đổ ra bao lâu nay phụ đạo thằng đầu quýt môn ngữ văn không phải là công cốc. "Tớ đoán cũng có một phần nào đấy."
Hinata cau mày khó hiểu trước lời nói úp úp mở mở của cô bạn. Tobio và Yachi là cộng sự đồng gia sư cho Hinata hơn một năm nay; Yachi vẫn thường hay trách hắn khắt khe với cậu ta quá, nếu như giỏi rồi thì đã đâu cần phải phụ đạo thêm, và hắn vẫn luôn miệng nhắc cô rằng đừng có cho cậu ta câu trả lời chính xác tường minh một cách quá dễ dàng như vậy, cậu ta sẽ không học được gì hết. Dạy cho những thằng não ngắn như Hinata thì kiên nhẫn phải thuộc hàng thánh mẫu, kiên nhẫn để cậu ta còn hiểu, kiên nhẫn bắt cậu ta phải nghĩ. Vậy nên cô nàng chỉ mỉm cười với cậu ta. Đây không phải là lần đầu tiên Tobio có suy nghĩ này, rằng cô bạn thân nhất của hắn cảm giác như sinh ra từ nắng: tóc vàng hoe óng ánh như dệt từ nắng, ánh nắng sánh quyện trong mắt cô trông như mật ong, nụ cười trên môi cô cũng hiền hậu ấm áp như ánh nắng chiều bên ngoài cửa sổ.
"Các cậu có muốn cá cược không?" Yamaguchi đột nhiên đề xuất, luôn luôn là người đứng ra điều hòa mỗi khi có dấu hiệu trái gió trở giời.
Hinata lập tức vểnh tai lên. "Cá gì?"
"Tìm một con mèo đen tuyền với mắt xanh không có dị tật gì hết," Yamaguchi vạch ra. "Phải có bằng chứng cụ thể."
Bình thường Tsukishima sẽ là cái thằng khịt mũi dè bỉu mỗi khi mấy đứa bạn tự dưng nổi hứng bày trò cá cược hay ganh đua với nhau gì đấy, một lũ ấu trĩ rảnh rỗi sinh nông nổi, làm như thể bản thân y cũng không phải là một tên hiếu thắng ngạo mạn với thú vui tao nhã là đá thúng đụng niêu nhà người ta. Lần này cũng không phải ngoại lệ—cho dù y trông có vẻ hứng thú ra mặt, hơn hẳn tất cả những bận trước đây. Y thậm chí còn rút điện thoại ra mở ghi âm đặt giữa mặt bàn. "Cụ thể kiểu gì?" y thận trọng điều tra điều khoản kỹ hơn. "Có ảnh chụp là được, hay phải bưng hiện vật đến tận nơi trình diện mọi người?"
"Ảnh chụp là được rồi," Yamaguchi bảo.
Tsukishima nhướng mày, khóe môi hơi kéo lên rất đểu giả, "Cậu không sợ bọn tôi ăn gian photoshop ảnh à?" cho dù cái điều y chỉ ra cũng rất chính đáng.
"Có Hitoka-chan và Kageyama ở đây mà," Yamaguchi tuyệt đối tự tin khoát tay về phía chúng nó. Cái nheo mắt của Tsukishima thì bảo rằng y thì không có tin tưởng vào nhân cách của hai đứa chúng nó đến thế: một thằng cũng thuộc thể loại tính toán lắm mưu mô, đứa còn lại thì vốn dĩ là hiền lành thánh thiện như thiên thần nhưng cặp kè với một con quỷ và chơi thân với một con quỷ khác thế nên thành ra cũng sinh hư theo.
Thế nên Yachi giơ một tay lên áp lên ngực trái. "Tớ thề sẽ làm ăn nghiêm chỉnh công minh."
Tobio hảo hữu làm theo. "Tôi cũng thế."
Cặp mắt vàng to lồ lộ chiếu xuống hai đứa cho thấy rằng thiếu gia vẫn còn bán tín bán nghi lắm, cơ mà cuối cùng cũng gật đầu chấp thuận. Đằng nào thì cũng đang ghi âm lại hết cả rồi.
"Giải thưởng là gì?" y hỏi tiếp—là phần quan trọng nhất, được ngóng chờ nhất—
Yamaguchi cân nhắc một chút—rõ ràng vụ cá cược này là ý tưởng đột xuất—, trước khi đề bạt, "Ai tìm thấy một con như vậy sẽ được bốn người còn lại cống nộp mỗi người một ngàn yên."
—và hiển nhiên là sẽ dễ gây tranh cãi nhất.
"Mỗi người một ngàn á?!?" Hinata thất kinh ré lên the thé.
Trong khi đấy, cậu ấm ngạo kiều thì chau mày không phục, thậm chí thất vọng, "Mỗi người có một ngàn thôi á?"
Hinata quay qua xì một hơi rõ dài đầy khinh bỉ với tên công tử trơ trẽn kia. "Xin lỗi nhưng tụi này chỉ là thường dân thôi, thưa thiếu gia."
Tsukishima quắc mắt ngược trở lại ngay tức thì. "Đừng có gọi tôi là thiếu gia," y cắn cảu. Hinata đảo mắt, cúi đầu lầm bầm gì đấy nghe không rõ cơ mà không lầm được là đang chửi rủa người ta và bị nhéo mạnh một cái vào mạng sườn trừng phạt.
Tsukishima ra tay nhanh gọn lẹ siêu thản nhiên không chớp mắt lấy một cái, quay về luôn chủ đề chính, "Cái con mèo cậu bảo mình tìm là một con mèo đột biến gen hiếm. Một ngàn không đáng. Cậu có biết là có những người sẵn sàng trả giá lên đến bảy trăm ngàn, thậm chí một triệu rưởi cho một con mèo không?"
"Một triệu rưởi cho một con mèo?!?" Hinata thất thanh, mắt trợn ngược như muốn lòi ra khỏi tròng.
"Đấy là cái giá bạn gái anh trai tôi trả cho con mèo Savannah của cổ," Tsukishima bảo với một cái nhún vai dửng dưng như thể đấy không thành vấn đề, như thể đấy là chuyện thường tình, như thể một triệu rưỡi yên là cái giá hoàn toàn hợp lý cho một con mèo.
Đành rằng nhị thiếu gia nhà Tsukishima có khắc kỷ và thực tế hơn thằng anh, cơ mà vẫn có những tình huống như thế này bộc lộ rõ mồn một sự khác biệt giai cấp cao đến tận trời giữa thành phần quý tộc trâm anh thế phiệt và đám dân đen hèn mọn.
Yamaguchi quen biết thiếu gia lâu năm nhất trong đám, đến giờ quá quen với kiểu hành xử hãm đời và những quan điểm lệch lạc của y tất yếu chỉ lắc đầu ngao ngán. "Thế cậu nghĩ bao nhiêu là đủ?"
Tsukishima bấm đốt ngón tay nhẩm tính mất mười giây, xong phán một câu xanh rờn, "Mười lăm ngàn mỗi người."
Hinata bật ra một tiếng như mắc nghẹn. Tobio có hơi quan ngại, bị dọa sốc hết lần này qua đợt khác chỉ trong chưa đầy năm phút thế này không khéo cậu ta nhồi máu não lăn đùng ra đấy luôn mất.
Giờ thì đến ngay cả Yachi cũng phải giãy nảy lên: "Mười lăm ngàn?!?"
"Mỗi người mười lăm ngàn?!?" Hinata gào rú. "Cậu đây là muốn bóc lột bọn dân đen này đúng không?"
"Cậu có biết mình có thể mua được bao nhiêu thứ với mười lăm ngàn yên không?" Tobio tốt bụng chêm vào nhắc nhở phòng trường hợp cậu ấm ngậm thìa vàng không biết giá cả thị trường ra sao. Mười lăm ngàn yên tiền dữ liệu di động dùng tẹt ga ba tháng. Mười lăm ngàn yên mua được một cái Stylus cao cấp cho máy tính bảng. Mua được một cặp tai nghe tương đối chất lượng. Mua được một đôi giày thể thao ổn.
Tsukishima thở mạnh một hơi. "Vậy thì mười hai ngàn năm trăm thôi."
Tobio cau mày. "Sao để lẻ thế?"
Tsukishima thuận ý chỉnh sửa theo—có điều hiển nhiên là sẽ làm tròn lên chứ không có xuống, "Vậy thì mười ba ngàn."
"Ba ngàn thôi," Hinata mặc cả. Cơ mà mặc cả xuống chỉ còn 20% so với cái giá ban đầu thế có hơi sâu, cậu ấm nghe nào lọt tai được, nhìn cái vẻ đầy khinh bỉ của y như thể có bãi phân ngay dưới mũi là biết.
"Năm ngàn," Tobio đề xuất. Đây là số tiền đám học sinh cao trung như bọn chúng có thể tiêu vặt trung bình trong vòng hai tuần.
Tsukishima vẫn không chịu thua. "Mười ngàn."
"Bảy ngàn," Tobio cương quyết, giương mắt trông thẳng vào cặp đồng tử vàng khối trước mặt không nhún nhường. "Đấy là giá cuối cùng. Không thì dẹp, tôi không tham gia."
Bọn chúng trừng mắt với nhau một thôi một hồi.
Thế rồi—
Tsukishima thở dài một tiếng thườn thượt, chấp nhận điều khoản, "Thôi được rồi. Bảy ngàn mỗi người." Y quay qua đám còn lại đảo qua một lượt đầy thách thức. "Mấy người còn có ý kiến gì nữa không?"
Trông ba đứa còn lại vẫn còn day dứt với cái giá dựng ngược ấy lắm, dù Tobio đã mặc cả xuống còn non nửa cái giá ban đầu nhưng số tiền ấy âu cũng đủ tiêu xài trong một tháng chứ có ít ỏi gì.
—Không hề ít luôn. Tính ra nếu mày may mắn thắng cược, mỗi đứa nôn ra bảy ngàn cống nộp tổng cộng hai mươi tám ngàn. Nếu mày thua, mày lỗ bảy ngàn. Nếu mày thắng, mày thu hồi về hai mươi tám ngàn, lãi hai mươi mốt ngàn tức 300%. Hai mươi tám ngàn mua được rất nhiều thứ.
Các bạn nhỏ à, đây là lý do tại sao mình không nên sa vào bài bạc cá độ. Dù biết là xác suất rất thấp nhưng vẫn lao đầu vào, bởi vì xác suất dẫu thấp đến bao nhiêu cũng đâu phải là bằng không, người ta vẫn sẽ bấu víu lấy cái hy vọng nhỏ nhoi ấy, có lẽ mình sẽ may mắn, có lẽ kỳ tích sẽ xảy ra với mình.
Đằng này cứ cho là khả năng tìm ra được con mèo đúng với mô tả của mỗi đứa là như nhau, tức là 20%, không phải là một xác suất tệ.
—Chính xác thì không phải 20%. Tình hình chiến sự thực tế không đơn giản như vậy.
Cơ mà không phải thằng nào cũng quan trọng việc cân đo đong đếm thiệt hơn, những thằng làm trước nghĩ sau, những thằng cứ thế cắm đầu về phía trước không chút ngại ngần, không chút lo sợ:
"Chơi luôn," Hinata hùng hổ phán, giương nắm đấm lên trời. "Sợ gì."
Yamaguchi đảo mắt trước sự hồ hởi tăng xông của Hinata, trước khi quay qua hỏi ý kiến người yêu, làm như không phải chính cậu ta là cái thằng đã đầu têu khởi xướng trò mèo này, "Cậu thấy sao?"
Yachi nghiêng đầu, chân mày hơi nhíu lại. "Kèo này khó có người thắng lắm," cô nàng nhận định.
"Không ai phải trả tiền ai nếu như không có người thắng, đúng không?" Tobio chỉ ra. "Không ai có lợi thế hơn những người khác." Xác suất chiến thắng thậm chí thực chất không phụ thuộc vào bọn chúng, mà là vào khả năng có tồn tại một con mèo như vậy. Hắn cần thêm dữ liệu, thêm thông số mới có thể tính toán được chính xác cái xác suất p này là bao nhiêu, cơ mà tạm tin Yachi, cho rằng con mèo này thuộc thể loại đột biến gen siêu siêu hiếm gặp, thì coi như p gần như tiến về 0, tức xác suất chẳng có thằng nào thắng cả gần như bằng 1, vụ cá cược này dễ là kéo dài lâu lắm, kéo dài đến vô tận, chỉ thời gian mới cho được câu trả lời. Trong khoảng thời gian vô xác định ấy, không ai được gì, cũng không ai thiệt gì hết.
Âu cũng là công bằng.
Yamaguchi trầm ngâm thêm một chốc, trước khi gật đầu đánh rụp một cái xác nhận. "Ừ thì chơi."
Yachi cũng gật đầu. "Tớ tham gia."
Còn duy nhất một người.
Ừ thì nguyên tắc vận hành của Tobio là sẽ không bao giờ thề thốt, không bao giờ phê chuẩn một đề án, không bao giờ chấp nhận một thỏa thuận mà hắn không chắc chắn là tỷ lệ thành công trên 90%.
Vấn đề là, hắn vốn yếu tim. Những kẻ nào thân quen với hắn rồi sẽ thấy hắn là một thằng nhóc thảo mai thích chiều lòng người khác, cực kỳ dễ bị ảnh hưởng, cực kỳ dễ bị thuyết phục, đặc biệt là trước những cặp mắt ngóng trông khấp khởi hy vọng như hừng đông ló dạng thế này.
Tobio nhắm mắt, thở dài một tiếng đầy cam chịu.
Thôi thì, có phải là dự án đấu thầu nhà máy điện hạt nhân mấy nghìn tỉ đâu. Chỉ là đặt cọc bảy ngàn cho một con mèo, thậm chí khả năng cao là chẳng cần phải trả đồng nào.
"OK," hắn đồng thuận. "Chơi thì chơi."
Tsukishima cong môi rất lấy làm thỏa mãn.
"Thế nhé," y tuyên bố chốt hạ giao kèo, với tay qua lấy điện thoại dừng đoạn ghi âm.
Đây không phải là lần đầu tiên Tobio có suy nghĩ này, rằng đám bạn thân của hắn kẻ nào kẻ nấy đều có cảm giác như được sinh ra từ ánh sáng: từ Hinata hồn nhiên nhiệt huyết đến Yachi dịu dàng khéo léo, từ Yamaguchi phúc hậu kiên định đến Tsukishima sắc sảo tinh anh. Chơi với chúng nó cảm tưởng như bước ra khỏi căn nhà ẩm mốc ngột ngạt tiến vào khoảng nắng rực rỡ, cảm tưởng như ngồi kế bên ngọn lửa lò sưởi vào ngày đông giá lạnh. Sự ấm áp chói lòa của chúng nó không làm tan chảy hoàn toàn tảng băng trôi lềnh phềnh trong lồng ngực hắn, không làm tay chảy được băng tuyết ngàn năm bọc quanh tim hắn, ngấm sâu vào từng ngóc ngách trong cơ thịt, trong xương tủy, trong tâm hồn hắn, tuy nhiên nó có giúp những đầu ngón tay hắn tan giá mà dễ cử động hơn một chút, có giúp hắn dễ thở hơn một chút và được chút nào hay chút ấy, hắn vẫn có cảm kích về sự tồn tại của tia nắng ấy, thập phần cảm kích với sự hiện diện của chúng nó quanh hắn.
Âu cũng là bản chất con người, luôn luôn hướng về ánh sáng, về những gì tốt đẹp nhất.
Hắn hy vọng rằng, một ngày nào đấy, băng giá rồi sẽ tan chảy được hoàn toàn, mặt đất lạnh cứng cằn cỗi rồi sẽ sinh ra được những mầm xanh, những đóa hoa, những cây đại thụ phổng phao vươn tới trời xanh, vươn tới vô tận.
.
.
.
Tobio ngắm nghía cái hộp một thôi một hồi nữa.
Tỷ lệ là 50-50. Cốc nước đầy một nửa, cốc nước vơi một nửa. Phản ứng tổng hợp hạt nhân deuterium-deuterium có hai khả năng khác nhau với xác suất xảy ra ngang nhau: một là tạo ra một nguyên tử tritium là đồng vị phóng xạ của hydro và một proton, là phản ứng trực tiếp phóng xạ; hai là tạo ra một nguyên tử helium và một neutron, sản phẩm tự thân không phát ra phóng xạ.
Trong một thế giới nào đấy, ống đếm Geiger nhận được tín hiệu phóng xạ, thả cây búa đập vỡ lọ hydrocyanic acid. Con mèo chết.
Trong nhiều thế giới nào đấy, con mèo chết. Con mèo luôn luôn chết, ngoại trừ ở những thế giới nó không tồn tại. Hắn đã thấy quá nhiều mèo chết rồi, từ Chobi đến Milo và Gạo, cho tới những con mèo hoang hắn vẫn thường thấy lởn vởn xung quanh khu phố, quanh khuôn viên trường đại học. Thế giới này không hề dễ dàng tử tế gì với nhân loại chứ chẳng nói gì đến những sinh vật nhỏ như những con mèo.
Đã lâu rồi hắn không thấy Hotaru. Hắn không biết cậu bé còn sống hay đã chết như những con mèo khác dưới mắt quan sát, dưới sự chăm nom của hắn.
Hắn thật sự không có duyên với những động vật nhỏ. Từng nấy con mèo chết trong tay hắn, bọn mèo luôn luôn tránh thật xa hắn như tránh tà cũng là điều dễ hiểu. Bọn mèo kể ra cũng thông minh lắm, mũi cũng thính đánh hơi nguy hiểm không thua gì chó.
Ấy vậy mà, sau tất cả—
Rời khỏi nơi này sẽ không đến nỗi khó khăn nhọc nhằn như khi ra sân thi đấu bóng chuyền, như khi đơn thân độc mã bước lên chuyến bay một chiều đến Düsseldorf, như khi mắc kẹt trong phòng cách ly trong đơn vị điều trị tăng cường phải thở máy và có một loạt dây dợ nối vào người, nhưng ở đây ấm áp, sáng sủa và bình yên, hắn biết hắn sẽ quay về với đau đớn và nỗi sợ hãi phải mất mát thêm nhiều nữa, phải thất vọng thêm nhiều nữa.
Nhưng hắn vẫn đứng dậy.
"Con muốn con mèo vẫn còn sống."
Ba mỉm cười. Một nụ cười như hắn vẫn nhớ, như hắn vẫn khắc in sắc từng nét một trong tâm trí: hiền từ chân chất mà uyên thâm, có gì đấy ranh mãnh và vạn phần kiêu hãnh.
"Ba hiểu."
Ba đưa tay lên xoa đầu hắn, xong kéo thằng con giờ đã cao lớn phổng phao hơn cả mình vào một cái ôm thật chặt, thật lâu. Hắn ôm lại ba cũng thật chặt, bởi vì hắn biết, đây sẽ là lần cuối cùng—lần cuối cùng trong một khoảng thời gian rất dài, dài thật dài, dài bằng cả một đời người.
Khi ba thả hắn ra, hai cha con nhìn nhau một hồi lâu thật lâu, hai cặp mắt xanh ngút ngàn như có cả bầu trời, có cả biển khơi gói vào trong giống nhau như hai giọt nước đối diện nhau, nhìn như muốn lưu lại ghi ảnh cuối cùng của người kia hằn sâu trong tiềm thức, sâu tới tận tâm can.
Ba vỗ vai hắn. "Chăm sóc mẹ con giùm ba."
Hắn gật đầu một cái chắc nịch. "Vâng."
Trước cái vẻ trịnh trọng của hắn, ba bật cười. "Làm gì mà phải nghiêm trọng thế," ba bảo, đưa tay lên xoa đầu thằng con. "Con giống y chang mẹ con ở điểm này." Tiếng cười của ba không ồn ào đến mức thành ra có chút vô duyên như mấy chú bác tuổi trung niên khác, cho dù rõ ràng là ba đang cười trêu hắn. Tiếng cười của ba lắm lúc cảm giác như ông đang kìm nén lại—ông trông như thể luôn luôn cố gắng kìm nén bản thân mình lại, tuy nhiên tính ông chỉ đơn giản là như thế: trầm lặng và điềm tĩnh trong mọi hoàn cảnh, bởi có cuống, có hoảng loạn, có cáu giận cũng chẳng thay đổi được điều gì, chi bằng tập trung vào tìm cách giải quyết vấn đề. Ngay cả khi ông chết.
Chết là vấn đề không ai có thể giải quyết được. Không ai có thể tránh khỏi.
"Ba xin lỗi vì đã ra đi quá sớm," ba khẽ nói. "Làm khổ mọi người ở nhà nhiều."
"Không sao đâu ạ," hắn bảo. "Ba cũng đã phải hy sinh nhiều rồi." Quá nhiều là đằng khác ấy chứ.
Hắn mỉm cười.
"Ba có thể yên nghỉ được rồi."
Ba mỉm cười lại với hắn.
Hắn nhấc cái hộp và bước lên tàu.
—Cơ mà, hắn vẫn chưa thể quay đầu được.
Vẫn còn một việc. Vẫn còn một thứ hắn phải hỏi, vẫn luôn muốn hỏi từ rất lâu mà chưa bao giờ có cơ hội.
"Con hỏi ba một câu cuối được không?" hắn nói bằng tiếng mẹ đẻ của ba, cũng đã từng là tiếng mẹ đẻ của hắn ở một cuộc đời xa xôi, ở một thế giới lạ lẫm nào đấy, thứ tiếng hắn lâu đã không nói, vụng về lóng ngóng trong cổ họng, trong khoang miệng, trên đầu lưỡi hắn.
Ba gật đầu. "Ừ."
"Ba có hạnh phúc với cuộc đời mình đã sống không?"
Ba tươi cười với hắn. Mắt ba thăm thẳm biêng biếc như bầu trời giữa hạ, như sắc hoa xin-đừng-quên-tôi nở rộ bên mộ khi hắn đi thăm ba vào ngày sinh nhật ông. Giọng ông vang và khỏe trong tai hắn, ngay cả khi cửa tàu đã đóng và con tàu đã bắt đầu chuyển bánh và bóng hình ba xa dần, mờ dần, chìm vào khoảng không.
"Ba chắc chắn là không có gì phải hối tiếc cả."
Tobio ngồi xuống một băng ghế. Con tàu đi xuyên qua đường hầm, lao ra một khoảng không gian sáng trưng. Nhìn ra bên ngoài cửa sổ, hắn có thể thấy bầu trời cao rộng ngút ngàn mở ra tới vô tận, có thể thấy dòng sông bên dưới cây cầu treo con tàu đang băng qua, mặt nước gợn lăn tăn, óng ánh dát vàng dưới nắng mai.
Có một tiếng meo yếu ớt vang lên từ trong hộp.
.
.
.
Kageyama Tobio có một giấc mơ. Một giấc mơ dài thật là dài. Giỏi toán không đồng nghĩa với việc thiếu sáng tạo, thiếu mộng mơ. Suy cho cùng thì toán có nguyên một mảng dành riêng cho việc phân tích suy xét các cơ hội, các khả năng. Suy cho cùng, đã là người thì cũng sẽ mơ, cũng sẽ hướng về những điều tốt đẹp nhất, mỹ mãn nhất.
Tobio có một giấc mơ. Một giấc mơ dài thật là dài. Một giấc mơ nơi hắn gặp lại tất cả những người hắn đã từng gặp mặt và cả những người hắn chưa bao giờ quen biết. Một giấc mơ nơi mẹ hắn không phải là mẹ hắn. Một giấc mơ nơi ba hắn không phải là ba hắn. Một giấc mơ nơi cả hai người không phải là phụ huynh của hắn. Một giấc mơ nơi cả hai người vẫn là phụ huynh hắn vẫn nhớ, vẫn kính mến. Một giấc mơ nơi hắn không có một người chị gái, mà là một đứa em gái. Một giấc mơ nơi hắn có một đứa em trai. Một giấc mơ nơi ông ngoại hắn là tuyển thủ Olympic đúng như mơ ước tuổi thanh xuân của ông. Một giấc mơ nơi ông ngoại hắn chưa bao giờ biết đến bóng chuyền. Một giấc mơ nơi hắn và những người bạn thân nhất của hắn chưa bao giờ và sẽ không bao giờ gặp nhau. Một giấc mơ nơi mỗi người là một đường thẳng, giao nhau đúng một lần trước khi bẻ nhánh đi tới một phương trời khác xa vô tận. Một giấc mơ nơi họ vẫn luôn ở bên cạnh hắn như ngày đầu tiên, vẫn là những kẻ đã nuôi lớn hắn.
Tobio có một giấc mơ. Một giấc mơ dài thật là dài. Một giấc mơ mà hắn sống lại những ký ức hắn đã từng sống qua và cả những ký ức hắn chưa bao giờ sống qua. Một giấc mơ nơi hắn giỏi bóng chuyền nhưng không giỏi toán. Một giấc mơ nơi hắn giỏi toán và chưa bao giờ cầm lấy quả bóng chuyền. Một giấc mơ nơi cả toán lẫn bóng chuyền không nằm trong cuộc đời của hắn. Một giấc mơ nơi cả toán lẫn bóng chuyền đều nằm trong tầm tay hắn.
Tobio có một giấc mơ. Một giấc mơ nơi con mèo vừa chết cũng vừa sống. Một giấc mơ nơi hắn đã chết và vẫn còn sống. Một giấc mơ nơi hắn là tất cả mọi thứ hắn có thể trở thành và tất cả mọi thứ hắn không bao giờ trở thành.
Tobio có một giấc mơ. Một giấc mơ dài thật là dài. Cảm tưởng như cả một đời người—không, cả ngàn đời người đã trôi qua. Một giấc mơ có buồn, có vui. Có ấm ức, có bình yên. Có tiếc nuối, có mãn nguyện. Có thất vọng, có hy vọng.
Nhưng đến cuối ngày, chúng chỉ là những giấc mơ. Chỉ là những ảo ảnh, những câu chuyện hư cấu tâm trí hắn dệt nên.
Chúng không phải thực tại. Hắn biết thực tại của hắn như thế nào. Hắn biết hắn của thực tại như thế nào. Hắn biết quá rõ là đằng khác ấy chứ.
Tobio có một giấc mơ. Một giấc mơ dài thật dài.
Đã đến lúc hắn rời khỏi giấc mơ ấy.
Đã đến lúc trở về với thực tại.
.
.
.
Dậy đi nào, Tobio.
.
.
.
Thế giới hít mạnh một ngụm dưỡng khí.
Thở ra.
Hít vào.
Thở ra.
Hít vào.
Thở ra.
Hít vào. Thở ra.
Thế giới tiếp tục đập nhịp. Đều đặn. Bình an. Vững vàng.
Thế giới tiếp tục quay.