Work Text:
Cách đây hai ngày, Ratio có nhận được một đoạn tin nhắn dài từ Topaz. Nguyên văn đoạn tin nhắn chỉ nhắc đến một mình Aventurine, cùng Hanahaki. Vốn dĩ anh cũng không tin, nhưng khi nhìn thấy hoa lan nhật quang nổi trên mặt nước, mọi công việc của Hội Trí Thức lẫn những buổi họp của các học giả đều bị gác lại.
Rạng sáng, nhờ cơn mưa đêm qua mà không khí trở nên se lạnh, cảm giác như có nước đọng trên da. Ngày hôm đó Ratio dậy sớm hơn thường lệ, khi mà mặt trăng còn chưa lặng. Anh vội vàng vệ sinh cá nhân, thay quần áo và xếp vài thứ gì đó vào ba lô, trên bàn là một lá thư được đặt ngay ngắn. Xong việc, Ratio tranh thủ chạy qua tòa nhà của Hội Trí Thức cách đó không xa, nhét lá thư vào hòm và vội vã chạy về. Topaz có đính kèm địa chỉ trong đoạn tin nhắn kia, một nơi nằm khuất sau một cánh rừng, và nơi đó nằm trên đỉnh của một ngọn núi nằm ven vùng ngoại ô.
Gần năm giờ sáng, chuyến xe buýt đầu tiên trong ngày chuẩn bị khởi hành. Đây là chuyến xe đặc biệt dành cho dân làm văn phòng hoặc là người làm đêm, việc nó chạy từ rất sớm đôi khi làm rộ lên tin đồn về một chiếc xe buýt ma, nhưng sau một khoảng thời gian gây hoang mang thì tin đồn thất thiệt ấy cũng dần lắng xuống. Aventurine có gọi cho Ratio, nói rằng em ấy biết đoạn tin nhắn giữa hai người, và Topaz đã không giữ lời hứa. Nhưng có hơi ngạc nhiên, em lại không có ý định bảo anh ở nhà. Cuộc gọi thoại chỉ vỏn vẹn hai phút hơn, bên trong còn nghe thấy có tiếng lá khô lao xao, nói là dù sao cũng rất muốn được gặp anh.
Ratio đến trạm xe buýt khi chỉ còn năm phút nữa là xe đến. Anh ghé vào một quán cà phê mở sớm, đi ra với một ly latte sữa ít đường, ngọt nhẹ và đậm vị cà phê. Ở trạm xe ngoài anh ra còn có hai người khác, một người mặc vest như dân văn phòng, còn người kia là một người đàn ông đứng tuổi mặc áo khoác thể thao, hỏi ra thì mới biết ông đến ngọn núi vùng ngoại ô để tập thể dục. Vứt cái ly giấy rỗng vào thùng rác, Ratio hơi tập trung vào tấm bản đồ lớn dán ở bảng thông báo, trạm dừng của anh là trạm cuối cùng trước khi chuyến xe này sẽ vòng qua con đường bên cạnh để về lại trung tâm thành phố.
Chuyến xe buýt bắt đầu khởi hành khi trên xe khá vắng khách, chỉ khoảng vào năm người. Con đường lớn mà hằng ngày đông người qua lại bấy giờ yên tĩnh lạ thường, chỉ nghe đâu đó có tiếng mèo kêu và những tiếng lao xao không xác định. Trời vừa vào cuối thu, đám cỏ bên đường ngả màu vàng úa, còn những hàng cây xung quanh bắt đầu rụng lá, lá khô rụng đầy đường. Xe lăn bánh qua một con sông nằm giữa lòng thành phố, men theo con đường mòn cũ kỹ để chạy vào tuyến đường phụ, bên cạnh tuyến đường sắt đô thị. Cảnh quan vào buổi sớm thưa thớt với mọi vật, những rặng núi thường ngày nhấp nhô như cái bóng vẫn hoàn toàn chìm trong màn đêm, đèn đường cũng còn sáng. Khi chuyến xe tiến vào giữa khe núi, vị cà phê nồng trong khoang miệng trào lên như thác, nghẹn ứ ở cổ họng. Bánh xe va vào những đoạn ổ gà trên đường đi, xóc qua lại như đi ở những con đường chưa được sửa sang vùng nông thôn hẻo lánh, cảm giác càng không quá khác biệt. Rừng bắt đầu rộng hơn, tiến sát vào vùng tiếp giáp ngoại ô và ánh đèn bên trong chiếu sáng đã đập vào mắt anh những cánh rừng già. Lá ướt đẫm nước chôn dưới rễ, mùi đất nồng len lỏi qua khe cửa sổ lọt vào trong, không mấy dễ chịu. Người đàn ông mặc trang phục như nhân viên văn phòng lầm bầm những từ gì đó trong cổ họng, trực giác của anh mách bảo nội dung của nó chắc chắn không tốt đẹp gì cho cam. Người phụ nữ quay về từ ca làm đêm tựa đầu vào thành kính, lim dim trong giấc ngủ ngắn. Người đàn ông đứng tuổi khi nãy ngồi bên cạnh bạn của ông ta, cả hai nói gì đó về những cái xe, cần câu và hồ nước ở vùng ven. Ratio ngửi thấy mùi nước ngọt, có vẻ cái hồ ấy nằm cách đó không xa.
Cảnh vật bên ngoài từ khi xe tiến vào khe núi chỉ lặp đi lặp lại là rừng và rặng núi, kéo theo đó là sóng biển. Vùng này tiếp giáp bờ biển rộng, ban đầu Ratio cũng không quá để tâm đến nơi đây sống như thế nào, nhưng thực sự chỉ khi được tiếp xúc với nó, tiếng sóng mới làm anh có cái nhìn khác. Nó yên bình hơn tiếng mưa, sâu hun hút, không thấy đáy. Suốt quãng đường chuyến xe dừng lại hai lần, là người phụ nữ sau ca đêm và người đàn ông làm văn phòng. Trong xe bây giờ chỉ còn ba người, anh và hai người đàn ông đứng tuổi. Bác tài xế khi lái xe qua các trạm đều dành thời gian ngoái đầu lại quan sát, cảm xúc của con người mỗi lúc một khác biệt, có vẻ lạ lẫm vô cùng.
Chuyến xe đi thêm một đoạn và dừng lại ở trạm cuối cùng. Nơi Ratio bước xuống không có gì đặc biệt ngoài một lối mòn chỉ đủ rộng cho hai người và một tấm biển có ghi số 7, là nơi mà Topaz dặn anh hãy đi bộ lên. Đằng xa bên kia ngọn núi, sóng biển vỗ vào những rặng đá ngầm tạo nên những đoạn âm thanh rõ ràng hơn tất thảy, và mọi thứ dần rời khỏi cái dáng vẻ yên lặng. Hai người đàn ông đứng tuổi đã bắt đầu buổi tập thể dục và rời khỏi trạm được một lúc, ngọn núi vào lúc năm giờ ba mươi phút sáng chỉ còn mỗi mình anh, mặt trời cũng chưa có dấu hiệu ló rạng. Ratio bật đèn pin, một đám hoa lan nhật quang nằm thành bãi đọng nhỏ ở chân cầu thang đá, cánh hoa mất gốc còn chưa kịp đổi màu.
Bỏ qua sự hiện diện của nó, Ratio rọi đèn pin, bước từng bước thật chậm lên bậc thang đá, men theo con đường hẹp đi lên trên. Bao quanh hai bên lối đi là tán tuyết tùng tỏa mùi cay cay, đám chim non làm tổ bắt đầu vỗ cánh và con cú đêm chuẩn bị vào giấc ngủ. Ngoài khơi xa có tiếng hải âu đập cánh, gió nổi lên những đợt ngắt quãng, đuổi theo sóng lớn tấp vào bãi cát, màu cát vàng liền sẫm tối. Khu dân cư cao cấp phía bên kia hòn đảo vẫn còn sáng đèn. Quán bar đêm tắt tiếng nhạc vào lúc bữa tiệc tàn, tiếng rú ú ớ của con chó hoang mệt lả thân xác nó, còn đám người ăn chơi trác táng cũng bắt đầu dịu dần.
Qua mười lăm phút, phía trước mặt là một cái cột đá nhô lên, mũi tên chỉ hướng hai giờ với dòng chú thích được khắc trực tiếp lên mặt đá nhám: “Biệt thự thuộc quyền quản lý của IPC, vui lòng không phận sự, miễn vào.”
Vệt nước đọng rõ ràng hơn trên nền đất dưới ánh đèn. Cú đêm đã chìm giấc, đám chim non vừa rời vỏ vỗ cánh, lâu lâu sẽ vọng lại cùng tiếng gió, vọng lại như tiếng kèn Harmonica được chơi dưới những vòm cây. Mọi tạp thanh vang xa hơn tiếng sóng vỗ, càng vào sâu, sự hiện diện về sự sống bên ngoài càng trở nên mơ hồ.
Qua quãng đường ấy là điểm kết thúc, nửa tiếng trôi qua như một giấc mộng dài với một người xa lạ. Phiến đá được dựng lên trước cổng sắt đã hoen gỉ, hai hàng chữ xiêu vẹo với cái tên được nhắn đến là IPC, công ty Hành tinh Hòa Bình. Cái cổng sắt ấy không cao, lớp sắt hoen gỉ bên ngoài tróc ra cùng lớp sơn phủ tạm bợ, bê bết như màu máu đã bị oxi hóa. Sân vườn rợp lá sau trận mưa đêm qua và tán tuyết tùng đã rụng gần trụi lá. Ratio đẩy nhẹ cái cổng sắt, nó nghiêng qua nghiêng lại cùng một vài động tác, cuối cùng đổ ập xuống và làm vỡ một viên gạch nhỏ. Bên trong truyền ra tiếng động, một lúc sau thì Topaz xuất hiện với nụ cười nhẹ.
“Tôi cứ nghĩa là ngày mai anh mới tới. Bên hội Trí Thức có một cuộc họp vào sáng nay đúng chứ?”
“Tôi đã hoãn lại rồi, dù sao cũng không quan trọng lắm.”
“Hiếm thấy anh lại chịu dời lại một cuộc họp quan trọng của hội. Giáo sư Ratio, Aventurine đối với anh quan trọng đến vậy sao?”
Ratio không đáp, ngược lại anh lại nhớ đến một lần hiếm hoi mà cả anh và Aventurine đều nhắc đến cùng một chủ đề.
“Tôi nhớ con bạc từng hỏi tôi, liệu bản thân cậu ta có thể được phép trở thành khẳng định của chính bản thân không? Khi ấy, tôi chỉ cho cậu ta một câu trả lời…”
“Là…?” Topaz nghiêng người với vẻ hoài nghi.
Ratio im lặng khi anh đột ngột đứng lại giữa sân vườn, cái bóng phía sau như bị nuốt chửng vào màn đêm sắp tàn, còn mặt trời vẫn vùi mình sau bóng tối:
“Cậu phải sống… ít nhất là khi cậu còn sống…”
Topaz chợt thở dài, dường như cô hiểu ra điều gì đó.
Dẫu sao người đứng ngoài càng không thể hiểu được người trong cuộc nghĩ gì. Hệt như cái cách mà thiên tài nhìn thấy phàm nhân, bỏ qua phạm trù của nhân tính, con người sau cùng cũng chỉ là sinh vật cao cấp hơn những thứ khác.
Đi qua bậc thềm với những vết nứt dài đã mọc rêu xanh thẫm, cái chuông cửa bị đánh vỡ tan tành, rời ra với hai ba sợi dây treo lủng lẳng. Ratio tắt đèn pin, khung cảnh với lớp ánh sáng mờ như sương tan bao bọc xung quanh khu biệt thự, nhàn nhạt nhìn thấy con cú đêm treo ngược mình ở cành cây phía xa. Topaz mở cửa, bên trong có ánh sáng hắt ra, tổng thể đỡ tồi tàn hơn bên ngoài.
“Giáo sư ngồi đi, trong nhà không có sẵn bánh để mời anh, thật xin lỗi. Anh làm một tách trà nhé?”
Topaz treo áo khoác lên giá, xắn cao tay áo và bước vào trong căn bếp đối diện hành lang. Ratio đặt balo xuống ghế sofa, ngồi thụt vào tấm nệm dày trên ghế, đưa mắt nhìn đánh giá. Phòng khách trang trí giản dị hơn vẻ ngoài hào nhoáng nhưng ghê rợn của một căn biệt thự cũ, không có tivi nhưng có một bức màn và máy chiếu, rèm lớn màu xám tro và khung cửa kính lớn. Cái đầu bò tót màu đỏ lòm nằm gọn ở một góc tường bên trái, con dao găm găm vào một cái đế làm bằng gỗ và để trên nóc tủ, lưỡi dao bám đầy bụi và hoen gỉ.
Topaz mang ra hai tách trà, để trong một cái khay với hai chiếc tách màu trắng sữa. Mùi hồng trà cũ kỹ để lâu ngày, màu nước trầm đục lẫn với xác trà trong đáy ly, nhưng không gọi là một tách trà hư. Ratio nhìn gương mặt của anh hiện lên trong màu nước, sắc đỏ trầm, gương mặt cũng đanh lại.
“Aventurine đang ngủ, lâu rồi cậu ấy mới yên giấc được. Giáo sư nói chuyện với tôi một chút nhé.”
Đến khi tách trà đã vơi đi phân nửa, Topaz mới nhẹ giọng lên tiếng. Mũi chân của cô di di trên tấm thảm trải sàn, lớp bông mịn tạo cảm giác nhồn nhột giữa những kẽ ngón. Hơi lạnh buổi sáng làm cô thư thái hơn, hơn cái lạnh buốt xương vào đêm tối. Ratio hạ tách, một tiếng “cạch” vang lên đều đều, sau đó mới chầm chậm trả lời, “được.”
Ngón tay gõ đều đều trên ghế, sắc bạc như hư không vô tận, liếc nhìn xuống đáy vực dưới chân. Topaz nắm lấy tay Ratio mà lật qua lại, ngón giữa hằn lên một vết chai vì cầm phấn, ánh mắt nâng niu đến cực hạn. Cô cảm nhận được hơi ấm len lỏi trong bàn tay, hơi ấm nhẹ nhàng lướt qua như cánh chuồn chuồn vỗ mặt nước. Bàn tay của Topaz nhỏ hơn của Ratio, khi áp lên liền có cảm giác lọt thỏm vào giữa cái lồng to lớn bao bọc lấy mình.
“Aventurine nói là bàn tay chúng tôi bằng nhau, khi áp lên chắc hẳn sẽ nhỏ bé rất nhiều so với anh.” Cô cười cười, giọng như sắp khóc. “Thế giới của cậu ấy cái gì cũng nhỏ cả, kể cả lòng tự tôn. Tôi không hiểu tại sao cậu ấy lại yêu anh, giáo sư, nhưng thế giới của cậu ấy nhỏ bé hơn anh rất nhiều.”
Ratio nắm năm ngón tay của anh lại, mường tượng ra dáng vẻ của Aventurine khi con bạc nắm lấy tay Topaz, cũng nhỏ bé và khát khao một điều tương tự.
“Nếu không phải vì bệnh tình mà cậu ấy nói với tôi, có lẽ tôi cũng không thể tin vào tình yêu đó. Giữa thế gian hàng trăm vạn người, gặp qua vô số loại người khác nhau, cậu ấy lại yêu trúng anh, vẫn là ước muốn của phàm nhân muốn được chạm vào sao trên trời.”
Topaz nghẹn lại như sắp khóc, bàn tay rời khỏi bàn tay của Ratio, miết những kẽ tay vừa chạm vào hơi ấm ấy vào nhau. Mười ngón tay đan xen, đan vào nhau như cố giữ lấy một thứ gì đó dễ dàng đánh mất, cũng càng mơ hồ và vô nghĩa. Có cái gì đó ở cả hai mà cô không biết, không muốn biết và không nên biết. Cô chẳng thể hiểu nó đau đớn đến nhường nào, chỉ đứng lặng một bên sẽ càng đau khổ một cách hời hợt rồi dễ dàng cho qua. Một thứ cảm xúc mang tên “đồng cảm”, sự đồng cảm đến từ thấu hiểu, rồi giá trị của nó mất dần đi và con người thì không thể chạy thoát khỏi sự vị kỷ.
Ratio thậm chí không thể nói một lời nào.
Trời hửng sáng, chim non vỗ cánh, Topaz bình tĩnh lại và bảo là có việc cần ra ngoài. Sau khi tiễn cô ra cửa, Ratio nằm trên sofa, mơ màng nghĩ đến cơn mưa mà anh nghe thấy vào đêm qua. Anh nhớ đến cái lạnh cắt da vào mùa đông năm ngoái, cái lạnh bị sóng biển cứa vào và hoàng hôn chợt tắt. Ratio thả hồn đi rất lâu, anh nằm đó với tâm trí đuổi theo những gì đã qua và kỷ niệm xa xôi nào đó chẳng ai biết đến.
Chợt có tiếng chuông tin nhắn, là từ Aventurine.
“Tôi muốn đi dạo, anh đi cùng nhé.”
Một lúc sau, Ratio đẩy cái xe lăn của Aventurine ra ngoài, dẫn cả hai men theo lối mòn đi vào trong rừng. Cánh rừng tuyết tùng trụi lá vào cuối thu, khắp nơi đều thấy có màu lá thẫm vàng trên mặt đất, khóm cỏ dại èo ọt oằn mình dưới gốc rễ, nghiêng ngả như có ai vừa dẫm lên nó. Ratio quan sát xung quanh, khắp nơi chỉ có những hàng cây xếp không theo quy luật, rộng cành đâm thẳng lên cao. Tuyết tùng mang mùi cay cay như lá bạc hà, hơi chút lạnh và dư âm của cơn mưa đêm qua chưa ngớt. Trời không nắng mạnh như mọi khi vào buổi sáng, vậy nên nếu mưa lớn thì qua đến buổi chiều hôm sau hẳn còn cảm nhận được.
“Giáo sư có thấy chán không?”
“Sao thế? Cậu lo cho tôi à?”
“Sao giáo sư biết hay vậy?” Aventurine bật cười, “tôi ở đây thấy chán lắm, tôi không muốn giáo sư cảm thấy giống tôi đâu.”
Ratio thở dài, đưa tay xoa đầu con mèo xù lông đang ngoe nguẩy.
“Lo cho bản thân cậu trước đi, tôi thấy chán cũng sẽ có cách để vui lên. Hay cậu muốn giải toán với tôi?”
“Ồ không không,” Aventurine đưa tay phản đối. “Tôi là bệnh nhân, toán thực sự không hợp với tôi đâu.”
Gương mặt của Aventurine nhăn lại, giống như vừa ăn phải thứ gì đó rất đắng. Chỉ biết lúc Ratio muốn đưa tay lên một lần nữa, thứ anh chạm vào là một cái trần trắng toát, nắng rọi lên cánh hoa lan nhật quang trắng còn độ xanh mởn. Ratio giật mình ngơ ngác, sau một lúc liền thở dài, còn Aventurine đã im lặng ngồi bên cạnh anh. Em ngồi trên tay ghế sofa, mái tóc vàng nhàn nhạt hiện rõ trước mắt, đôi mắt tím hồng với quầng thâm dưới mắt giãn ra, đôi môi khô khốc vừa nhìn thấy Ratio mở mắt nhìn mình liền nở một nụ cười.
“Anh có vẻ rất mệt mỏi, giáo sư. Đêm qua anh ngủ không ngon giấc sao?”
“Không hẳn. Chỉ hơi mệt thôi chứ không thiếu ngủ.” Ratio đáp lời. Anh ngồi dậy và hỏi, “còn cậu sao lại xuống đây? Đói bụng rồi sao, cậu ăn sáng chưa?”
“Chưa, nhưng tôi không đói.” Aventurine thành thật trả lời, “tôi xuống đây vì mãi không thấy Topaz, sau đó thì tôi thấy anh nằm ngủ ở ghế sofa.”
“Cậu ổn chứ?” Ratio gãi đầu, đồng hồ vừa tròn bảy giờ sáng.
“Tôi ổn, chỉ ở hiện tại thôi.”
Aventurine ngồi chen xuống bên cạnh Ratio, dựa vào người anh và tựa đầu lên vai anh. Cả hai giữ yên tư thế ấy, như muốn dùng thân nhiệt của đối phương để đo thân nhiệt của mình. Hơi ấm lẳng lặng như hơi nước, nhè nhẹ chạm lên mi mắt của Aventurine.
“Người đó nói tôi có thể làm như thế này để bản thân tốt hơn. Giáo sư, xin lỗi vì đã lợi dụng anh thế này.”
Aventurine mơ màng nhìn, đóa lan nhật quang trong lọ để trên bàn rơi xuống, cánh hoa héo úa trong một ánh nhìn. Sau đó không biết thế nào, chỉ biết khi Topaz quay về từ bên ngoài, trên sofa là Ratio ôm lấy Aventurine trong lòng, nhè nhẹ vỗ về tấm lưng yếu ớt khẽ run lên. Bên ngoài trời bắt đầu mưa, mưa râm ran không lớn, bóng mây vụt qua trong tích tắc rồi chợt tan.
Khi tỉnh dậy, buổi sáng đã biến thành buổi trưa. Ratio lúc nâng người ngồi dậy cũng phải nhẹ nhàng, tránh không làm người trong lòng thức giấc. Mưa bóng mây đã tạnh từ bao giờ, lọ hoa lan nhật quang héo khi sáng đã được thay mới, cánh hoa ngả về sắc tím.
“Anh có vẻ thích màu tím?” Topaz đứng dựa lưng ở chân cầu thang, “hoa đó là do Aventurine chọn, còn nói là anh sẽ thích.”
“Tôi không nhớ là mình từng nói với ai chuyện đó…”
“Anh nên nhớ là chúng tôi có quen một người đọc vị người khác rất giỏi. Mà cũng chẳng cần đến đọc vị, chỉ cần quan sát tốt là được.”
Topaz nháy mắt, mỉm cười nhìn cách Aventurine dụi đầu vào bên hông của Ratio. Ánh sáng đã khác, gió đã ngừng thổi và những đám mây cũng tan dần. Chim non vỗ cánh bay, chúng bay lên cao và không dừng lại. Cô nhìn thấy biển bắc nằm bên kia đại dương, một nỗi buồn thầm lặng và khoan dung, lơ đễnh về một giấc mơ khác. Con mèo hoang nhảy lên ô cửa sổ, con mắt đen của nó nhìn chằm chằm, bộ lông dính nước và nó ngáp một tiếng.
Sau mười một giờ thì Aventurine cũng tỉnh, nhìn qua cửa phòng bếp mặt trời đã lên quá giờ trưa. Nắng trưa vào mùa thu không gay gắt như mùa hè, nhưng nó vẫn có chút nóng và sóng biển tấp vào bờ cát mạnh hơn. Gió cất liu hiu như huýt sáo, cây xanh mở rộng tán vang lên tiếng lao xao, màu xanh mởn như con đường bị hút sâu vào khu rừng trước mắt, thăm thẳm dưới đáy vực. Topaz dọn bữa trưa, vì sáng không ăn nên bữa trưa chỉ toàn những món nhẹ bụng. Salad cá hồi và khoai tây nghiền, cháo thịt băm ăn kèm với súp đậu đỏ. Aventurine đã ăn hai bát trong một bữa, ngủ thiếp đi sau khi uống hết ly nước ép táo.
Đầu giờ chiều, khi Aventurine vẫn còn ngủ, Topaz đã rời đi theo kế hoạch. IPC không thể thiếu cả hai giám đốc P45 trong một thời gian dài, vậy nên cô phải quay về công ty trước cuộc họp định kỳ của “Mười người có trái tim đá”. Ratio và Topaz chào nhau ở cổng, cô có vẻ vẫn còn lúng túng khi giao lại mọi việc cho Ratio, nhưng khi tiếng xe đã đến trước chân núi và thời gian không còn nhiều, một lời chào tạm biệt qua loa và cô biến mất giữa rừng tuyết tùng. Con mèo hoang buổi sáng vẫn lảng vảng quanh đó, nó “ngao” lên một tiếng thật dài rồi dụi đầu vào cổ chân Ratio. Con mèo với bộ lông trắng phau và đôi mắt đen, cái đuôi lốm đốm màu mực cam và vành tai có nhúm lông cùng màu. Tiếng chuông ở cột hải đăng vang lên lúc hai giờ, sóng biển vội vã tấp vào bờ cát trắng.
Buổi chiều trôi qua suôn sẻ và không có mưa, đám chim non sau khi bay theo mẹ của chúng đã quay về vào lúc năm giờ, khi mặt trời còn nhìn thấy trên biển. Năm giờ chiều, Ratio nhìn đồng hồ, còn mười lăm phút là đến giờ nấu bữa tối, anh đang phân vân cho thực đơn bữa tối nay.
Aventurine chớp mắt, vùng dậy sau giấc ngủ dài.
“Tôi tính đi dạo vào buổi chiều mà. Sao giáo sư không gọi tôi dậy chứ?”
Ratio gấp sách, thở hắt ra một tiếng.
“Là bệnh nhân thì cậu nên ưu tiên giấc ngủ của mình hơn, con bạc. Tối nay nếu cậu không buồn ngủ thì tôi với cậu đi.”
“Thật không đấy? Giáo sư liệu có sở thích đi lừa trẻ con không vậy?”
“Tôi có lừa ai cũng chưa lừa cậu bao giờ.” Ratio nói, “tối nay cậu muốn ăn gì? Trong tủ còn thịt bò và một ít trứng.”
“Vậy thì Gyudon dí. Tôi muốn ăn Gyudon, tôi nhớ hương vị của món ăn đó khi được ăn lần đầu tiên tại nhà hàng gần công ty.”
Ratio tặc lưỡi, “món bình dân vậy mà cậu cũng mò tới nhà hàng cho được? Lần sau muốn ăn thì chịu khó nói tôi một tiếng, tôi làm cho cậu ăn.”
Cái lạnh ngoài kia bỗng rộn lên tiếng cười không ngớt.
Một lúc sau, hai phần Gyudon đã dọn sẵn trên bàn, nước chanh uống vào bữa tối với mật ong cũng được chuẩn bị. Bàn ăn hai người khi thiếu đi Topaz có chút không quen, nhưng Aventurine không hiểu vì sao lại thấy nhẹ nhõm, nói ra là vì Topaz qua mỗi bữa ăn đều sẽ báo cáo lại tình hình của em cho Jade và chẳng mấy khi trong báo cáo ấy thực sự ổn.
“Nó không ổn so với một người khỏe mạnh, giáo sư hiểu không?” Aventurine nhè giọng.
“Tôi hiểu,” Ratio thuận tay đút cho con mèo tóc vàng một muỗng cơm. “Nhưng báo cáo chân thực mới đánh giá tình hình của cậu chuẩn xác được. Nếu là tôi thì cậu sẽ không ăn chặn nổi dù chỉ là một lần thôi đâu.”
“Có cho tôi hai mươi tỷ tín dụng làm giàu cũng chưa chắc tôi dám ăn chặn của anh.” Aventurine nhai miếng cơm trong miệng, “anh đánh giá tôi cao quá đó giáo sư.”
“Nếu cậu cho rằng chỉ như vậy là cao thì cậu đang đánh giá thấp bản thân mình. Ăn nhanh đi, nếu cậu muốn tắm sớm và ta đi vào tối nay.”
Bữa tối kết thúc trong năm phút sau đó và có người lao nhanh vào nhà tắm, bên ngoài là tiếng xối nước. Mười phút sau đó Aventurine bước ra với cái đầu ướt sũng cùng khăn bông vắt trên cổ, bộ quần áo ngủ dài kín tay, khóe môi bí mật còn đọng lại nước. Ratio kéo con mèo tóc vàng kia lại ghế sofa, nhấn nó ngồi xuống và chủ động lau khô đầu cho nó. Lớp nước ướt mèm thấm vào khăn bông, hai gò má của Aventurine hồng lên dưới cái lạnh nhè nhẹ, ngay lập tức bị quấn vào một cái chăn bông.
“Cậu nằm đó chờ tôi.”
Aventurine gật đầu, nằm xuống ghế sofa và nhắm mắt. Ratio vào nhà tắm, bồn rửa mặt sát lối ra vào thoáng mùi máu, có cánh hoa nhỏ kẹt lại ở lỗ thoát nước, còn mới và chưa héo. Thành bồn và kính nhà tắm có vệt máu bắn lên như tia nước, phần nút kem đánh răng nhiễm đỏ và tay cầm phản ứng hóa học với luminol. Ratio đảo mắt, một khắc vào lúc đó anh ngây người rồi rất nhanh lấy lại bình tĩnh.
Lan nhật quang ngoài kia đã tàn, lan nhật quang chẳng thể sống khi mùa đông về.
Trăng đêm đó rất sáng, nhưng vì trời đã tối nên kế hoạch xuống núi bị bác bỏ. Aventurine ngồi tựa đầu lên vai Ratio khi cả hai ngồi trước cửa hiên, nhìn con cú đêm treo ngược cành cây với cặp mắt sáng choang, đám chim non đã rúc vào tổ và cánh rừng chìm vào đêm tối. Cách bọn họ không xa về phía bờ biển bên kia, khu ăn chơi của đám con ông cháu cha lại nổi nhạc, bắt đầu cho một đêm trác táng. Không khí khi về đêm trên núi trong lành hơn so với chốn đô thị, không có tiếng còi xe inh ỏi và tạp âm xen vào giữa tiếng nhạc, tiếng quát tháo và phố đông người đi bộ.
“Tôi nhớ lúc mình còn sống ở nhà, mọi thứ không yên tĩnh như lúc này.”
“Trên núi thì không thể so với chốn đô thị đó được. Cậu vẫn muốn về đó hơn ở đây?”
“Nửa muốn nửa không. Nói sao nhỉ, nếu về thì tôi sẽ rất khó gặp được giáo sư. Còn nếu ở lại đây thì giáo sư đã tình nguyện đến ở với tôi rồi.”
“Nghe tầm thường thật.” Ôm lấy Aventurine trong lòng, Ratio thấy ngay lúc này đây cũng không tệ.
“Cũng đúng. Nghe rất tầm thường, đến tôi cũng tự hỏi sao mình lại mong muốn một điều tầm thường đến vậy.”
Nói rồi, Aventurine lim dim ngủ. Giấc ngủ đến bất chợt và không nói trước, cả cơ thể nhỏ bé ấy đổ ập xuống, dựa hẳn vào lồng ngực của Ratio. Tiếng thở đều đều rúc vào hõm cổ của anh, hương hoa táo đầu mùa ngòn ngọt dỗ cho Aventurine yên giấc. Sáo ngân vào đêm tối, người nghe cũng đã ngủ.
“Một ngày.”
“Mười lăm ngày.”
Sáng hôm sau, trời lại tiếp tục mưa. Dù chưa đến mười lăm ngày nữa là tuyết sẽ rơi, nhưng trời vẫn cứ mưa như trút bỏ nỗi lòng. Bữa sáng có món rau trộn sốt bơ, bánh mì nướng kiểu Pháp, sữa và một ít trái cây. Đêm qua tiếng sáo nghe không dứt, Ratio không có cách nào đành phải mang bữa sáng đến tận phòng cho Aventurine. Càng đi, tiếng bản giao hưởng càng nặng nề, cắt đứt không gian yên ắng.
Phòng của Aventurine không có gì ngoài một chiếc giường lớn và bàn trà nhỏ, bên trên đặt một lọ hoa lan nhật quang tím, cánh hoa nửa tím biếc, nửa tím thẫm xen lẫn vào nhau, mây và màu của buổi bình minh quen thuộc.
“Nào Aventurine, dậy ăn sáng rồi cậu muốn ngủ tiếp thì ngủ.”
Ratio kéo tấm chăn bông lớn, lôi con mèo vùi mình trên giường dậy, xách vào nhà vệ sinh. Tiếng nước chảy giao hòa vào tiếng đánh răng, sau đó là tiếng nôn ọe và mùi máu đậm dần. Cánh hoa lẫn vào trong máu, lan nhật quang đỏ thẫm xơ xác dính vào đáy bồn, rễ non xuyên qua cổ họng, đẩy cho đám cánh hoa rơi ra. Sau khi lau mặt và rửa sạch vết máu còn dính lại, Aventurine được anh bế ra ngoài, ngồi dựa lưng vào thành giường.
“Cậu đừng nói gì hết, Aventurine. Tôi không thấy nó ghê tởm gì đâu.”
Con mèo vàng cười cười, thật không biết nó đang nghĩ gì.
“Giáo sư, nếu trời tạnh mưa vào buổi sáng, tôi muốn ăn nho. Loại nho xanh không hạt ấy, tôi không ăn nho có hạt đâu.”
“Đã ăn còn kén chọn.” Nhét miếng bánh mì được cắt nhỏ cho Aventurine, anh hạ giọng, “vài ngày nữa trời ngớt mưa, tôi đưa cậu đi ăn nho.”
“Giáo sư có nuốt lời không đấy?”
“Tôi có nuốt lời cũng chưa nuốt lời cậu bao giờ.”
Tiếng cười phá lên ở căn phòng tầng hai, đám chim non giật mình rơi khỏi tổ, cắp cánh bay lên cao. Cánh chim sải mình trên nền trời xanh thẳm, mặt trời thiêu đốt áng mây trên cao, mưa lại trút xuống không ngớt.
“Giáo sư muốn ngắm mưa không?”
“Thay vì ngắm mưa thì tôi nghĩ là cậu nên học với tôi vài tiết Triết học.”
“Giáo sư không tha cho người bệnh được sao?”
“Có vẻ cậu vẫn còn khỏe lắm.”
Ratio bật cười, còn Aventurine thì im lặng lắng nghe. Tiếng cười nhẹ át đi tiếng mưa một cách chậm rãi, người lắng nghe chỉ còn nghe thấy tiếng cười, mưa rơi bên kia bậc thềm nhỏ dần rồi im bặt.
Aventurine chạm tay lên cổ, cảm giác đau đớn đốc thúc em bật khóc, cơn đau đến nghẹt thở chỉ biết ôm lấy một sinh mệnh yếu ớt mà sống. Ratio buông cuốn sách trên tay, ôm lấy con mèo vàng vào lòng, vỗ về nó nín khóc. Hai con người ôm chặt lấy nhau, nén lại nỗi đau để tiếp tục bật cười, mặc cho nước mắt cứ rơi xuống.
Mưa thấm ướt vạt áo người qua đường, rừng tuyết tùng nhiễm trong sương tan, chỉ đợi một ngày tuyết sẽ rơi.
Ba ngày sau, mưa tạnh hẳn.
Mưa không còn rơi vào buổi sáng, gió thổi buốt hơn và mặt biển bắt đầu lạnh dần. Ratio choàng lên cổ Aventurine một cái khăn lớn, khoác cho em một cái áo khoác dày và chân đi giày da.
Con đường men theo chân núi sáng hơn mọi khi sau những ngày mưa, bụi cỏ và khóm lá vàng đã biến mất gần hết, trơ lại con đường rỗng. Aventurine sau những ngày chôn mình trong nhà có vẻ tận hưởng chuyến xuống núi, tiếng bước chân như có người lặp lại, và trong rừng thi thoảng lại nghe thấy tiếng sột soạt. Con gấu mèo chạy ra từ một bên bìa rừng, tay cầm hạt dẻ màu nâu đưa lên miệng cắn, sau đó nó chạy đi. Con đường vòng qua núi không xa như đêm Ratio tới đây, nó có vẻ rộng hơn và hai người vừa đủ. Con đường lát nhựa vòng xung quanh ngọn dốc cao thoang thoảng, sát mép vòng cua là thanh lan can trông thẳng ra biển, từ nợ đó nhìn xuống là thấy bãi đá nhô lên như ốc đảo. Hải âu lướt qua trên trời, cột hải đăng có mấy con đang dừng cánh, cọ mõm vào một bên lông.
“Cậu ổn chứ?” Ratio vỗ nhẹ lưng Aventurine, “từ chỗ này đến khu chợ còn khá xa. Hay tôi cõng cậu nhé.”
Trước khi nhận ra đó là một câu tường thuật thay vì câu hỏi, Aventurine đã nằm yên trên lưng Ratio. Từ khoảng độ cao này có thể nhìn rõ mặt biển xanh đang di chuyển, bãi đá ngầm bị sóng vỗ vào như thác lũ, cuốn lên bãi cát ẩm. Gió đìu hiu vào buổi sáng vẫn khá lạnh, cho dù mưa đã tạnh nhưng vẫn nghe thấy mùi đất ẩm bốc lên cao ở những đoạn đường ngắn.
“Anh muốn ăn nho sao giáo sư?”
“Sao cậu lại hỏi vậy?”
“Vì nếu chỉ tôi muốn ăn thì anh chỉ cần nhờ người mua tới thôi mà. Giáo sư, anh cũng thích nho xanh sao?”
Ratio im lặng gật đầu.
“A~ vậy là tôi bất ngờ có chung sở thích với anh rồi.” Aventurine dụi đầu vào hõm gáy của Ratio, “cái này người hâm mộ của mấy nhóm nhạc lớn hay gọi là “cheap moment” á. Giáo sư thấy có đúng không?”
“Đúng.” Ratio nhìn trông ra biển, “tôi cheap moment với cậu rồi, cậu có vui không?”
“Vui chứ…” Aventurine nhỏ giọng, rúc sâu vào sau gáy của anh, cảm nhận hương hoa táo dịu ngọt đã luôn vỗ về em vào mỗi đêm.
Khu chợ của thị trấn gần đây không đông, nhưng lại có rất nhiều loại trái cây khác nhau. Topaz đã đưa cho Ratio địa chỉ ở đây trước khi rời đi, nó được kẹp trong cuốn sổ tay được để trên mặt tủ lạnh. Quầy trái cây ngập trong màu đỏ của táo và dâu, dưa hấu mọng nước và cherry đỏ. Nho nằm gọn trong một góc ở quầy hàng, chùm nho tím to như hai ngón tay cái gộp lại được để trong hộp lớn, màu nho trong như nhìn thấy được cả ruột bên trong, tất nhiên là loại ít hạt. Nho xanh nằm bên cạnh nó. Quả nho không to, nhưng màu xanh ấy rất đẹp, nằm gọn trong lòng bàn tay. Cô chủ quầy trái cây ngạc nhiên khi thấy Aventurine không mua nho tím mà lại mua nho xanh, Ratio lúc thanh toán tín dụng chỉ có thể gượng cười.
Ratio đi theo sau mua ít đồ cho ba ngày tới, còn Aventurine thong thả đi phía trước ăn nho. Ánh mặt trời đuổi theo màu tóc vàng hắt lên hàng cây xanh, gió thổi cất lên tiếng sáo đuổi theo đầu ngọn sóng lớn, từ khu chợ cũng có thể nghe thấy rõ ràng tiếng sóng vỗ. Biển xanh không dừng lại, ai cũng đang bước đi, lưu luyến một khúc nhạc từng nghe.
Aventurine trốn vào một quán nước, ngã người tựa vào sau ghế. Ratio gọi một cốc nước ép nho cho con mèo vàng đang khò khè, ít đá, ít đường. Từ buổi sáng sớm đuổi theo trời cao, lúc bấy giờ đã vào gần giờ trưa, lúc anh nhìn đồng hồ đã là gần mười giờ.
Aventurine uống hết ly nước ép, mơ màng nhìn thấy sao. Trong cổ họng dội lại tiếng tim đập một cách vội vã, rễ hoa cắm vào khoang hô hấp, cứ thế lao xuống buồng phổi. Cơn đau khoét vào miệng vết thương làm nó chảy máu. Máu cứ chảy, càng sống càng đau, cơn đau đến vỡ nát những giấc mộng. Trong quán nước bây giờ không có ai, Ratio kéo Aventurine lại, ôm chặt lấy. Bờ vai run lên dưới cằm anh, khắp nơi bám rễ vào ngọn cây đâm chồi, tia sáng xanh đổi màu nước da trắng ngần.
Trưa hôm đó cả hai không ăn cơm, Aventurine chỉ uống nước cũng thấy đau, cuối cùng cố ngủ cho qua bữa. Cả buổi chiều không tỉnh, hơi thở của Ratio trong căn biệt thự nặng nề dần. Anh đi đi lại lại, cuốn sách thường ngày chỉ cần ba giờ để đọc hết một nửa, đến nay đã qua mười lăm phút vẫn chưa lật trang mới. Trang sách dừng lại ở một số nhất định, bốn mươi bốn về rễ cây anh túc. Anh đặt cuốn sách qua một bên, đóng cửa chạy ra ngoài.
Lối đi buổi sáng bây giờ hẹp lại, dốc đứng xuống dưới. Bước chân con người vội vã đạp lên con ốc sên chậm chạp bò qua, lao mình xuống đáy vực. Con dốc thoai thoải bấy giờ thẳng đứng hướng lên cao, trong cơn hoảng sợ anh nhìn thấy con mèo hoang cựa mình liếm lông, trông như một bức tranh cũ.
Đoạn đường dốc đứng không có ai, một con chim sẻ sà xuống lòng đường rồi lại cất cánh bay lên. Ratio khuỵu người, thở dốc, cảm giác choáng váng từ cơn đau đầu vẫn chưa hết. Lúc đó, một người đàn ông đứng tuổi bước đến, đội một cái mũ màu xanh lá cối và mang vóc dáng của một người lao động chân tay. Ông ta chạy đến khuỵu một chân xuống, đôi mắt nâu trầm nhìn thẳng vào mắt Ratio, gặng hỏi:
“Này, cậu không sao chứ?”
Cơn đau đầu rõ ràng hơn với tiếng búa bổ vào hai bên thái dương, tầm nhìn trước mắt nhòe đi và mồ hôi tuôn ra, ướt sũng cả vạt áo. Nhưng trước khi có viên thuốc màu trắng được đặt lên trước khóe môi, trong khoang họng của Ratio ngập vị đắng. Vị đắng ngắt làm anh chợt tỉnh, gương mặt người đàn ông lộ rõ vẻ lo lắng hiện ra và viên thuốc được anh nuốt xuống. Nước lạnh chảy qua cổ họng, con đau dịu đi và ánh sáng trở nên sáng tỏ.
“Cảm ơn…” Ratio nhỏ giọng.
“Cậu nên về nhà thì hơn, tôi không chắc thuốc giảm đau sẽ hết tác dụng khi nào. Có thể đau hơn, thuốc cũng không phải là toàn năng.”
Người đàn ông cất chai nước vào túi đeo hông, có vẻ là một người sống gần đây. Ông ta vừa nói vừa ngâm nga bài hát nào đó trong miệng, Rừng Na Uy của Beatles, mỗi thanh âm của nó đều khiến anh khó chịu.
“Ông là người dân ở đây sao? Trời đã lạnh hơn rồi nhỉ?”
“Quả thật trời đã lạnh hơn, ta thậm chí còn có thể nghe thấy mùi của tuyết. Ôi thật là khó tin, nhưng quả thực tuyết đang đến gần.”
Người đàn ông nhún vai, bộ cần câu của ông ta để nép vào một góc, có vẻ là từ cái hồ nằm cách đó không xa. Cái hồ xanh rêu gọn trong góc núi, người ở khu đó đã tản đi, chỉ còn lại một cái hồ xanh và những con cá lâu lâu lại ngoi lên.
Ratio cúi đầu một cách im lặng, sau đó anh quay về.
Aventurine vẫn chưa dậy, trong phòng yên tĩnh đến lạ. Lúc Ratio chú ý đến đồng hồ một lần nữa thì đã là ba giờ chiều, con chim trong chiếc đồng hồ lao ra, tiếng kêu như tiếng cú ậm ừ giữa phòng khách. Trên dưới không một tiếng động như nhà không có người, anh quyết định uống chút gì đó.
Một chai vang cất kỹ trong tủ được lôi ra, cái nút chai bám một lớp bụi mịn và chất nước màu đỏ sậm. Mùi vang lợ lợ thoát ra khi rót nó ra cốc, giống mùi của rượu khai vị và đại loại thế. Ratio lôi từ đáy ghế sofa ra một cái hộp nhỏ, bên trong là đĩa hát và cái máy hình hoa loa kèn bám bụi đứng bên cạnh. Sau khi lên giây và lắp đĩa hát, giai điệu của một bản giao hưởng violin vang lên với nhịp dồn dập. L’inverno (Winter) của Antonio Vivaldi, và tuyết rơi, mùa đông về theo tiếng đàn đứt gãy.
Không lâu sau đó, trời sầm tối.
Nồi súp cua trên bếp vừa tắt, tiếng xối nước ngày càng lớn và màn hình điện thoại chợt tắt. Ratio đổ sữa vào cốc, anh ngơi tay lúc sáu giờ hơn, trên phòng Aventurine đúng lúc có tiếng động. Con mèo vàng ngồi ở đầu cầu thang, lúc thấy anh nhìn lên thì vui vẻ lao xuống, mơ màng mỉm cười. Ratio đưa tay xoa đầu em, kéo vào bàn ăn, trên khăn trải bàn đã chuẩn bị sẵn một phần súp cua, sữa tươi và quả lê.
Aventurine ngồi bên bàn, nhìn Ratio ăn hết món súp cua còn nóng mà mặt không biến sắc, đã vậy còn bày ra vẻ mặt sảng khoái. Giáo sư Chân lý để cái tô rỗng của anh qua bồn rửa, chuyên tâm lo cho bữa tối của Aventurine. Bát súp vơi dần với từng lần há miệng của em, Ratio cẩn thận từng li một, mọi động tác đều sợ sẽ dọa cho con mèo này một trận. Ăn xong, Aventurine bị đưa vào nhà tắm.
Mỗi lần vào đó, ký ức của Ratio sẽ chồng lên một ký ức không vui, và nếu tồi tệ hơn sẽ là một cơn ác mộng. Máu đổ trên bồn rửa mặt, khắp cơ thể đầy rẫy những vết nứt và lớp da bong tróc, bên dưới mạch máu còn nhìn rõ được rễ cây. Aventurine nôn thốc khi tiếp xúc gần với nước, mỗi lần như vậy rễ hoa sẽ đâm sâu, phần thân trên của nó men theo đường hô hấp chọc vào cửa cổ họng, đẩy đám hoa bị nghẹn lại nôn ra bên ngoài. Máu dưới động của vỡ mạch tuôn theo dịch hoa chảy ra, màu đỏ bị hóa lỏng cùng dịch vị, nhớp nháp như đờm nhưng đậm mùi tanh.
Aventurine không hoàn toàn chú ý đến Ratio, cơn khát nước chỉ khiến em điên cuồng trong việc dày vò bản thân, ném tâm trí mình vào một cái bẫy lớn hơn sự tưởng tượng. Nhưng sau khi thoát khỏi đó, con mèo nhanh nhạy trở thành con mèo chết, cơ thể co lại ngồi trên giường, hai chân thu vào trong chăn. Bộ quần áo ngủ rộng thùng thình bọc lấy em, cổ áo cài lên khuy cao nhất và mái tóc ướt sũng, khăn bông vắt hờ trên cổ. Đợi khi Ratio chú ý đến em, dùng động tác nhẹ nhàng lau khô mái tóc ướt, Aventurine biết là mình đang dần bị lệ thuộc.
Đêm hôm đó trời trở lạnh đột ngột.
Ratio cho rằng cái thời tiết này không khả quan với tình trạng sức khỏe của Aventurine, nhất là khi bệnh này liên quan đến hô hấp và các bệnh về phổi. Gió lạnh bên ngoài bị ngăn lại bởi những tấm kính lớn, một tấm rèm tối màu nhưng khắp căn phòng vẫn bị cái lạnh lẽo ấy xâm chiếm, mọi vật đều ôm đồm cái cảm giác lạnh buốt xương từ những cái chạm nhẹ.
Aventurine ngồi bên giường, còn Ratio thì tìm một cái máy sấy và sấy lên ga giường, chăn và gối. Tấm thảm bông dưới chân cũng được anh hơ qua, ấm nóng ở những giây đầu và mất dần. Em bị nhét vào trong chăn, hai lớp chăn bông dày lên do Ratio không biết từ đâu lôi ra thêm một cái nữa, gói gọn con mèo sợ lạnh vào cái ổ trên giường. Aventurine ló đầu ra khỏi chăn, không chú ý liền bị “ông giáo” ôm chặt lấy, bên mũi là mùi dịu ngọt rõ ràng của hoa táo.
“Ôm một chút sẽ thấy ấm thôi.” Ratio nói như bị ngạt mũi.
Im lặng một lúc lâu, em thì thầm:
“Giáo sư, giáo sư biết con mèo của Schrödinger không?
“Ý cậu là con mèo vừa sống vừa chết?”
“Ừm…” Aventurine gật đầu. “Tôi bây giờ, có phải rất giống nó không?”
Con mèo vừa sống vừa chết của Schrödinger, trên cơ sở của cơ học lượng tử là một thí nghiệm quan sát một con mèo có 50% khả năng bị giết bởi một mẫu chất phóng xạ sẽ phát ra tia phóng xạ trong vòng một giờ, và khi tia phóng xạ ấy phát ra, ống tiêm Geiger sẽ phát ra tín hiệu thả rơi một cây búa đập vỡ lọ thuốc độc Hydrocyanic Acid và con mèo sẽ chết. Còn nếu trong vòng một giờ không có tia phóng xạ nào phát ra, con mèo sẽ sống.
Hàm sóng của hệ thống là sự chồng chập của hai trạng thái con mèo sống và con mèo chết và cả hai trạng thái đều có cùng biên độ. Erwin Schrödinger đã kết luận rằng: Con mèo vừa sống vừa chết.
“Cậu nghĩ bản thân cậu là như thế nào, tôi không thay đổi được.” Ratio vuốt lưng của Aventurine, dỗ cho con mèo trong lòng anh không vì suy diễn lung tung mà mất ngủ. “Nhưng tôi lại đồng ý với Albert Einstein. Rằng trạng thái của con mèo là độc lập với quan sát.”
Nghe được câu trả lời, Aventurine cũng chịu đi ngủ. Giấc ngủ đếm ngược quãng thời gian còn lại, cũng là đếm xuôi những ngày đã trôi qua.
“Năm ngày.”
“Mười ngày.”
Quãng thời gian sau đó, không ai còn nhận định Aventurine là một người khỏe mạnh. Không phải là một người còn có khả năng cứu vãn, mà tồn tại ở đó một người mất dần sự sống. Topaz thường xuyên gọi điện đến. Bên phía IPC đang tổ chức một cuộc họp về việc loại Aventurine ra khỏi “Mười người có trái tim đá”, thu hồi lại đá tảng Aventurine. Thế nhưng điều đó không có nghĩa là một ghế giám đốc P45 bị bỏ trống mà điều này sẽ được quyết định vào gần mười ngày tới. Diamond gửi lời hỏi thăm sức khỏe đến Ratio, với đó là một lời cảm ơn, IPC đã tuyệt tình đến nỗi họ bây giờ còn không có thời gian rảnh để đến chỗ biệt thự.
“Không sao cả.”
Ratio dựa lưng ở cửa ra vào, đứng ở bậc thềm bên ngoài, hướng mắt trông ra biển.
“Tôi hiểu công ty có nỗi khổ riêng, Aventurine lúc nào cũng dặn tôi hãy thông cảm cho mọi người, tôi sẽ làm như em ấy nói.”
Phía đầu dây bên kia, Diamond nhỏ giọng nói thêm một lời cảm ơn, tiếp sau là tiếng ngắt máy. Một tràng dài âm thanh vang xa hàng thước, vang thêm một cõi rồi tự ngắt.
Hoa lan nhật quang tím giờ đã chuyển màu đỏ thẫm.
Anh nhận được tin nhắn, là của Aventurine.
- Tôi muốn ngắm hoàng hôn chiều nay, anh ngắm cùng nhé.
Tuyết vẫn chưa rơi, nhưng nhiệt độ đã lạnh dần. Trên núi nhiệt độ cao hơn đồng bằng khoảng 1 độ, hiện tại là 6 độ ngoài trời.
- Được.
Ratio cảm thấy mừng vì đá tảng Aventurine được để lại ở trụ sở IPC, nếu không anh không biết nên bày ra vẻ mặt như thế nào khi nhìn thấy đám người bên đó lên tận đây để thu hồi viên đá tảng, càng không biết nên an ủi Aventurine ra làm sao. Và Ratio chợt nhớ một chuyện, vốn dĩ lúc này đây anh nên gọi con mèo vàng ấy bằng tên thật, thay vì cái chức danh mà một người nhận được.
Nói đoạn, Ratio thực sự đi lên phòng.
Căn phòng mà năm ngày trước còn nói về một con mèo, giờ đây nó cách xa như một hòn đảo trôi nổi trên biển. Người nằm bên trong cũng giống như kho báu, một kho báu lênh đênh vô định, chờ một ngày dừng chân. Không thể hiểu nổi, bước chân của anh nặng nề dần.
“Aventurine… tôi muốn hỏi…”
Anh mở cửa, cái lạnh trườn dưới chân, xuyên qua da thịt. Bên kia đối diện với bức tường lớn, cửa kính mở toang và tấm rèm bị kéo lại, gió bên ngoài tốc vào trong. Aventurine ngồi dưới đất như quỳ, lọ hoa lan nhật quang thẫm đỏ lăn lóc dưới sàn, cánh hoa bị mảnh kính cứa vào, nát tươm. Cơn gió thổi từ đồng xanh qua biển lặng, đi qua cánh rừng tuyết tùng, vị cay nồng của nó hòa vào tĩnh lặng.
“Giáo sư, tên thật của tôi là Kakavasha.”
Em gượng cười, đến nước mắt cũng chẳng thể rơi xuống.
“Còn năm ngày, giáo sư hãy gọi tôi bằng tên thật nhé.”
Máu trượt xuống khóe môi, tí tách trên nền đất, Ratio không thể làm gì khác ngoài việc lao tới ôm lấy em vào lòng. Cơ thể ấy run lên trong cái ôm của anh, lạnh đến đóng băng cả trái tim, rễ hoa trong người em cũng vì cảm nhận được cái lạnh mà rụt lại. Bầu trời trước mắt như đổ màu lửa đỏ, mặc cho trời xanh như vô định, thứ hiện lên chỉ có một màu đỏ đến tan nát. Ratio đóng cửa và kéo rèm, anh bế Kakavasha lên giường, ôm lấy em và dỗ ngủ. Suốt cả buổi sáng ngày hôm đó, trong ấn tượng của em chỉ tồn tại hương hoa táo, loài hoa táo trắng mọc trên cây, táo lạnh và ngọt dịu.
Bữa trưa Kakavasha truyền dịch dinh dưỡng, Ratio chỉ ăn qua loa từ mấy món còn thừa lại khi sáng, từ đó đến giữa chiều cả hai đều ngủ. Khi Ratio tỉnh dậy, lúc đó đã là ba giờ chiều. Trời tối nhanh hơn anh nghĩ, chỉ mới ba giờ mà mây xám đã giăng kín lối, mặt trời chỉ còn nhìn thấy qua những kẽ mây và ánh sáng xuyên qua, chiếu xuống mặt biển.
“Em không sao chứ?” Ratio mở rèm khi thấy người trên giường tỉnh giấc, tấm rèm xám bị kéo qua một bên, khung cảnh ngoài cửa kính là một màu tro tàn.
“Giáo sư… mấy giờ rồi thế…”
“Ba giờ chiều.” Con gà trong cái đồng hồ bật ra, kêu lên vài tiếng rồi thụt vào. “Hoàng hôn đến sớm, chắc là vì đông đến gần. Em thấy đói không, dưới nhà còn sữa và sinh tố trái cây.”
“Ưm… không…” Kakavasha lắc đầu, sau vài phút liền rúc vào trong chăn.
Ratio ngồi đợi ở ghế sofa cạnh giường. Anh nhìn ra ngoài, biển ngược hướng với tầm nhìn của anh và mọi thứ trở nên vô định. Ánh sáng nhập nhòe như đèn đường trong mưa, mọi tia sáng hắt lại đều bị chia tách, và anh đang thấy một cơn mưa trong vô thức, một cơn mưa trong quá khứ.
Thời gian trôi chậm hơn sự chờ đợi. Mặt trời đứng yên trên không trung như có thứ gì đó kéo nó lại, mây hết cuốn vào nhau lại tan ra, xoáy vào giữa bầu trời một cuộn mây, khung cảnh thường thấy vào buổi đêm khi anh nhìn lên bầu trời. Chúng bao bọc lấy một tâm điểm và dồn mọi ánh sáng vào đó, mặt trời hay mặt trăng trở thành tâm điểm, thứ con người nhìn thấy vào khoảnh khắc đó là duy nhất, chỉ một và một đứng giữa trời cao. Ratio nghĩ đến người đó, người đó trong lời của Topaz, người đó đối với Kakavasha và người đó đối với anh. Không một thiên tài nào giống như người đó, một người hướng đến sự thấu hiểu và đồng cảm hơn bất kỳ ai, và cũng nhân từ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Anh không cảm thấy có gì kỳ lạ khi IPC tìm đến người đó để chữa cho Kakavasha, vì căn bệnh không thể chữa bằng thuốc thì chỉ có thể chạm vào vết thương đang chảy máu đó bằng cảm xúc.
Những kẻ lý trí khinh thường cảm xúc hơn ai khác.
“Ratio…”
Tiếng gọi anh, và bầu trời hửng nắng.
Mây tan, khung cảnh màu đỏ như bị lửa thiêu, bầu trời chìm vào cơn oán hận được xoa dịu, sắc tím còn đọng lại ở chân trời. Sắc đỏ hòa vào màu cam trầm, mây trắng ngả vàng dạt về đáy biển, biển xanh nuốt chửng cả mặt trời.
“Giáo sư, tôi thích hoàng hôn lắm.”
Kakavasha mỉm cười.
“Nó giống màu mắt của giáo sư, chập chờn ánh đỏ. Tôi lúc nào cũng muốn nhìn thẳng vào mắt giáo sư, tôi thích hoàng hôn vì đôi mắt đó, dù với người sắp chết thì nó chẳng khác gì chiều tà.”
Chim non cất tiếng kêu. À… nó đang kêu gì nhỉ?
Chiều tà dẫn cái chết đến gặp màn đêm, ở đó và ngủ say. Bên trong giấc mơ, thứ tồn tại không phải là “cái chết” mà là “say ngủ”. Những người còn sống tâm tâm niệm niệm một giấc mơ trắng xóa, rằng người họ yêu quý không bao giờ chết, họ chỉ ngủ say, và đến một lúc nào đó sẽ gặp lại nhau. Một giấc mơ lý trí đến đáng sợ, và rồi ai cũng tin vào nó.
“Ratio…” Kakavasha bước xuống giường, lê chân trèo lên người anh. Ngón tay trắng trong của em chạm lên khóe mắt chỉ đang nhìn mình, dịu dàng trả lời, “thật đẹp. Ước gì… tôi có thể ngắm nó mãi…”
“Có cần tôi móc ra cho em không?” Bàn tay to của Ratio nắm lấy cổ tay của Kakavasha, kiên định nhìn thẳng. Hai đường kẻ giao nhau trong phút chốc, còn ngỡ là nhìn thấy một hoàng hôn thực sự trong mắt đối phương.
Em hạ giọng, rúc đầu vào hõm cổ Ratio:
“Không cần đâu. Đẹp như vậy, giáo sư phải yêu quý nó thay tôi chứ.”
Yêu một hoàng hôn vĩnh viễn, còn hơn lưu luyến một khoảnh khắc thoáng qua.
Kakavasha cứ thế tựa vào lòng Ratio mà ngủ, giấc ngủ bình yên hơn mọi ngày khác, trước lúc bước vào giấc mơ sẽ không gặp ác mộng. Hoàng hôn chỉ đứng yên khi mây tan, chỉ một lúc sau khi mây tụ hội, hoàng hôn đã nhường chỗ cho màn đêm. Đêm ngự trị với vô vàn vì sao bỏ ngỏ, không một ngôi sao nào vượt qua mây mù, chỉ thấy một mặt trăng trở thành tâm điểm, cuốn vào một vòng xoáy không có điểm dừng chân.
Không mong hơn một khoảnh khắc hoa tàn.
“Mười ngày.”
“Năm ngày…”
Sau đêm đó, Kakavasha rất ít khi thức dậy. Dịch dinh dưỡng truyền vào cơ thể ngày càng nhiều, gần như thay thế hoàn toàn cho những bữa ăn. Vết kim đâm lỗ chỗ trên mu bàn tay phải, có vài vết hóa đen và sẫm màu, màu xanh nhàn nhạt phủ trên da càng ngày càng trở nên rõ ràng. Ratio mất ngủ hằng đêm, không đêm nào cả anh và Kakavasha không giật mình vì ác mộng.
Thời gian đó Topaz gọi đến thường xuyên hơn, trong báo cáo của người kia về tình trạng bệnh càng lúc càng xấu đi, cô không thể rời công ty chỉ có thể gọi đến. Lượng công việc hằng ngày của mỗi thành viên phòng Đầu Tư Chiến Lược vì vắng đi một người mà nhiều lên, thời gian thu hồi những khoản nợ có thể trả và thanh lý các khoản nợ xấu đến gần, trong công ty cũng lãng quên sự biến mất của một giám đốc P45. Đối với điều đó, Ratio không cảm thấy gì.
Kakavasha nói với anh là em hợp với một cái chết im lặng hơn là làm to như mấy tên khoe mẽ, tro cốt sẽ rải xuống biển, để linh hồn được tự do còn hơn là nằm yên trong lòng đất.
Mùa đông đến rất gần, biển không lúc nào thôi dậy những cơn sóng, vỗ vào bãi cát xám. Đã lâu như trăm năm không nhìn thấy hoàng hôn, núi non đã ngả màu, đồng cỏ đã thôi xanh. Đám chim non vỗ cánh đi kiếm rác về xây tổ. Những đợt chim rời tổ nhiều lên, hải âu đậu vào cột hải đăng, không còn ai nhìn thấy chúng vỗ cánh bay về phía mặt trời.
Những ngày đầu tháng mười một, trời đất im lặng.
“Em muốn được nhìn thấy tuyết rơi…” Kakavasha nằm trên giường, không khỏi mong ngóng, “nhưng có lẽ khó rồi.”
“Tuyết sẽ rơi sớm thôi.” Ratio đắp khăn ấm lên trán em, em vừa phát sốt vào đêm qua.
Ratio không yên giấc từ đêm đó. Anh thức trắng vào những đêm mà nhiệt độ bên ngoài xuống rất thấp, chuẩn bị đón đợt tuyết đầu tiên. Còn bên trong nhiệt độ cơ thể của Kakavasha tăng cao, cơn sốt do vỡ các mạch máu nhỏ trong da, rễ cây nhô lên ở buồng phổi, cánh hoa nghẹn lại trong cổ họng.
Không ai để ý, lan nhật quang đỏ đã tàn.
Ratio lần đầu tiên ngủ quên khi anh gục đầu bên giường, trong giấc mơ ấy, anh biết có ai đó xoa đầu mình, xúc cảm từ lòng bàn tay của người đó ấm áp, nhẹ nhàng vỗ về. Anh đếm xuôi từng ngày trôi qua, lắng nghe từng tiếng đàn nghe thấy, chạm vào nhịp tim đập loạn. Chỉ còn trong giấc mơ ảo cảnh của người còn sống, chỉ thấy trong lòng thành phố một ánh đèn chợt tắt.
“Xin lỗi vì đã không thể tin vào tình yêu của anh.”
Kakavasha ngủ yên, không thức giấc. Vào lúc tuyết rơi, bên dưới ánh đèn ấm chỉ có một người đang say ngủ, một người vừa tỉnh lại từ trong mơ đã vội vùng dậy, rơi nước mắt rồi òa khóc.
Rồi cả nước mắt cũng sẽ đóng băng.
“Ngủ ngon, Kakavasha…”
Có lẽ tiếc thương rồi sẽ còn đó, chỉ là chúng ta phải bước qua.
“Mười lăm ngày.”
“Một ngày.”
-
“Tôi mừng là biển chưa đóng băng sớm, cậu ấy sẽ tự do sớm hơn thay vì đợi đến mùa xuân.”
Topaz mặc âu phục đen, ngực áo cài một bông hoa hồng trắng. Ratio chăm chú lau đi lớp tuyết đọng của bia mộ, trên ngực áo là một bông bách hợp đen.
“Cô đem đến hoa gì vậy?”
“Lan nhật quang trắng.” Topaz trả lời, “suy cho cùng cũng chỉ có loài hoa này mới hợp với cậu ấy.”
Lan nhật quang trắng - “sự tiếc nuối sẽ theo tôi đến tận khi chết”. Chỉ biết đó là nỗi day dứt của Kakavasha, còn với ai khác thì điều đó vốn dĩ không còn quan trọng.
“Còn cái kia,” anh chỉ vào bó hoa lưu ly.
“Cái này là cho anh.”
Topaz đưa bó hoa cho Ratio, giữa lớp giấy gói màu xanh lơ là hoa lưu ly xanh và nemophila.
“Người kia nói rằng Kakavasha đã dặn anh ấy hãy gửi bó hoa này cho anh khi cậu ấy mất. Hy vọng rằng, anh sẽ không quên tình yêu của cậu ấy.”
Tuyết tiếp tục rơi, có bông hoa tuyết đậu xuống hoa lưu ly.
“Tôi hứa với em, Kakavasha…”
“Cảm ơn anh, giáo sư. Cậu ấy không có gì cả, nhưng cậu ấy có anh.”