Actions

Work Header

fantasy in fancy

Chapter 2: bellingham/güler • aşk

Summary:

Shall I compare thee to a summer’s day?
Thou art more lovely and more temperate:
Rough winds do shake the darling buds of May,
And summer’s lease hath all too short a date;
Sometime too hot the eye of heaven shines,
And often is his gold complexion dimm'd;
And every fair from fair sometime declines,
By chance or nature’s changing course untrimm'd;
But thy eternal summer shall not fade,
Nor lose possession of that fair thou ow’st;
Nor shall death brag thou wander’st in his shade,
When in eternal lines to time thou grow’st:
So long as men can breathe or eyes can see,
So long lives this, and this gives life to thee.

 

『 𝗦𝗼𝗻𝗻𝗲𝘁 𝟭𝟴 — William Shakespeare 』

Notes:

pov: Bellingham và Güler trèo lên Đồi Dạ Lan để đến thăm ngôi nhà cổ mà Güler định mua.

(See the end of the chapter for more notes.)

Chapter Text

"Dinh thự phía kia kìa." Güler nói, trỏ tay về ngôi nhà nằm trên ngọn đồi, phía dưới chân dốc, tại điểm kết thúc của những đoạn thoải cuối cùng, trông ra bến phà đang giờ vắng khách trên vịnh Bosphorus. "Nó từng thuộc về một pasha luôn muốn đi qua bên kia ranh giới, nên ông ta xây nhà theo kiểu Đổi mới. Nhưng ông ta là kẻ dở chừng, thành ra căn nhà nửa nọ nửa kia."

Bellingham nhìn theo hướng tay chỉ: ngón trỏ trắng và dài, cổ tay phơn phớt chút xanh xao của mạch máu. Mặt biển xanh xám dưới làn mưa phùn lất phất, đám hải âu chao liệng trên những con sóng nhấp nhô. Phía chân trời cuồn cuộn một cơn giông.

"Bây giờ nó thuộc về ai?"

Güler nhún vai. "Em không biết. Em chỉ gặp mỗi người trung gian." Rồi, cậu lại thủ thỉ, giọng hồi hộp, "Anh thấy hợp không, nếu em mua nó?"

"Em tính mua nhà mới?"

"Cả Istanbul chỉ có chỗ này là dạ lan mọc tự nhiên thôi." Güler xoắn những ngón tay trắng vào nhau, "Anh hỏi em mua làm gì đi."

"Em mua làm gì thế?"

"Hôm trước đi ngang qua đấy, em nghe thấy tiếng chim khuyên lảnh lót."

Thế là họ cùng nhau đi xuống dốc, rồi lại nắm tay nhau mà trèo lên Đồi Dạ Lan.

Khung cảnh đẹp mê hồn. Ở đấy, mọi thứ đều chuyển động: gió xám vi vu qua con nước xanh màu thép non hiền hòa đang ngả thẫm, mây cuồn cuộn xô ép nhau khắp mọi nẻo trời, những người bán hàng rong đẩy xe trái cây dạo đi khắp bờ ke, thuyền ngư phủ xếp lớp nhấp nhô trên sóng trắng, khói đen tỏa từ ống khói nhà thuyền tan tác vào không trung. Và hoa lan nữa, hoa lan mọc khắp chốn, dã dượi cái vẻ tơ vàng mơn mởn thanh tân, đeo bám đầy trên những gờ tường và bậc thềm nứt vỡ. Tòa dinh thự điêu tàn, đổ nát, màu gỗ bị xói thành sắc đen thui ớn lạnh. Không khí đầy ắp hơi nước và trĩu nặng mùi đất ẩm, nếu là ở Anh, tại xưởng thủy tinh trông ra tả ngạn sông Stour, Bellingham có thể quả quyết rằng trời sắp đổ mưa. Güler đang cúi đầu loay hoay với chùm chìa khóa leng keng những mẩu khóa xỉn màu cũ rích, cái ót trắng ngần cứ vậy mà phơi ra dưới tầm nhìn của anh.

Ổ khóa rỉ sét kêu lên lọc cọc. Phải mất một lúc loay hoay thì Güler mới tháo được thanh chốt khỏi ổ, mặc dù Bellingham đồ rằng với sức lực của bọn họ thì chỉ cần đụng nhẹ tí, cánh cửa chạm trổ đầy những hoa văn cầu kỳ này sẽ rơi luôn khỏi bản lề. Nhưng nếu thế thì bên địa ốc sẽ ăn vạ chết, khi ấy sẽ phiền toái lắm.

Tầng trệt trống trải, chẳng còn gì ngoài những vách tường thủng lỗ chỗ, lố nhố tràn trề rêu lẫn đám thực vật vườn xâm lấn vào bên trong. Sàn nhà lát gạch vuông đen trắng xen kẽ. Khoảnh sân dưới giếng trời đổ nát, dây leo cùng dạ lan uốn éo um tùm trên những cột xà đổ gãy. Băng ghế dài kê dưới gốc cây dẻ già chẳng biết bao nhiêu năm tuổi trồng chính giữa sân gãy làm ba đoạn. Những đồ nội thất còn sót lại sau cái tao đoạn cướp phá nằm im lìm, phủ vải trắng mục rữa.

Bụi phải dày đến cả tấc. Họ hắt xì liên tục. Bellingham còn nhiệt thành góp mấy cái rõ to, và rất ư là kịch nữa.

"Chúng mình lên trên xem sao." Güler day cánh mũi, ra hiệu về phía cầu thang lên lầu hai. "Ở trển chắc thoáng hơn. Dưới này có quá chừng là bụi."

Những bậc thang cót két dưới chân. Vách tường thủng một mảng lớn, lớp sơn mạ đã tróc đi theo mấy cơn phũ phàng gió bụi, để lộ ra lõi gạch đỏ nham nhở hệt vết thương hở lẫn lộn máu thịt ra giữa trời. Dây leo luồn qua khe hở, bám tràn lan trên từng bậc gỗ ẩm ướt, khiến cả quãng đường leo trèo cứ như leo giữa một cái vườn mọc nơi khoảnh dốc. Thứ còn lại vững bền chỉ có những khoảnh da thuộc bọc lấy các mảng tường xen kẽ với các mảng sơn họa tiết hoa huệ mạ vàng. Và lan can cầu thang nữa. Bất kể non chục bậc tam cấp có rền rĩ dữ dội và run rẩy lẩy bẩy thế nào dưới mỗi bước chân, cái lan can sắt uốn cong trổ đường vân cầu kỳ kiểu Tây phương vẫn sừng sững đấy như một cái đinh ghim khổng lồ đóng chặt cầu thang xuống sàn đá lát với một sức mạnh không thể suy suyển được. Phế tích của lầu son mở rộng ra trước mắt cả hai như đường vào cổ tích. Thảm dệt kilim dày dặn phủ kín mọi ngóc ngách mái lầu, sắc màu phai nhạt nom hệt ráng chiều pha. Có tới tận hai mươi cái cửa sổ, tất thảy đều mở toang: hoặc là bị gió đập quặt vào trong, hoặc là đã rơi hẳn khỏi bản lề, nằm tan nát trên thảm ố, tàn tạ nét sơn son thiếp vàng. Güler mau chóng tiến về phía khung cửa còn nguyên vẹn nhất, vịn lấy bệ cửa khắc hoa keo và đinh hương mà nhoài nửa người ra khoảng không rộng mở bên kia gác tía, hít lấy hít để thứ mùi ẩm ướt của cơn mưa ban trưa đang dần ngớt hạt. Bellingham chỉ túm lấy lưng áo cậu cho khỏi ngã, anh không thừa nhận mình lại đang chăm chú nhìn vào cái gáy ngon như chiếc bánh dẻo kia. Anh ép mình phải nhìn ra bên ngoài đặng cho cơn ngứa răng chóng dừng lại, để rồi khung cảnh mênh mang hoa lan vàng trải rộng ra trước tầm mắt.

Anh đã biết cả khu đồi này lan vàng mọc khắp chốn, song khi đứng từ bao lơn nhìn xuống, cảnh tượng cứ như một scene siêu thực cắt ra từ phim Big Fish. Vườn hoang phế chỉ có cỏ ngọt và lý chua, táo gai và lê dại, cẩm thạch và thông lùn là đủ sức mọc vống lên ở những khoảng trống hiếm hoi, chỗ nọ và chỗ kia, giữa mùa lan vàng tươi thắm. Ở đây không có đường, mọi lối đi mòn vẹt là do người ta tới xem đất, đi tới đi lui mà thành đường đấy thôi, hoặc, những lối đi quanh vườn theo kiểu thiết kế của Melling dành cho trưởng công chúa Hatice cũng đã hóa thành mùn đất sau chuỗi ngày chiếm đóng đằng đẵng của quân đội Hy Lạp. Hoặc, có thể dưới rặng dạ lan kia chôn chặt tiếng khóc than của hồn đàn bà điên dại chốn hậu cung vào buổi hoàng hôn đế quốc. Thoai thoải kia, vượt qua tấc bóng đổ vàng hoa lan, trùng dương vươn ra tít tắp, hối hả đuổi xô sóng bạc theo nhịp bánh tàu Tốc hành Phương Đông lao vun vút về chốn Tây phương. Bờ châu Âu mơ màng giữa sương biển ban trưa như mũi tàu khổng lồ lơ lửng dạt trôi.

"Đẹp quá." Bellingham buột miệng, thốt lên. "Kể cả phải xây lại cả cái nhà thì nơi đẹp thế này bán mua vẫn mắc lắm."

Güler vỗ tay lên bậu cửa sổ, khúc khích cười.

"Không đâu. Chỗ này rao rẻ lắm."

"Đừng giỡn."

"Em không đùa mà." Cậu thật thà đáp, "Tại vì người ta nói ở đây có ma đó."

"..."

"Con gái của vị pasha xây dinh thự này đã dùng của nả thừa kế làm nơi tuồn tin cho quân du kích Cộng hòa. Khi tình nhân của cô ta - một viên đại tá người Hy Lạp - phát hiện ra, hắn đã bỏ nhân ngãi cùng con mèo đen của cổ vào trong rương, và chôn sống dưới vườn dạ lan. Vì lính của hắn sau đấy đã nện mặt đất cho phẳng nên không ai biết rõ Công nương Dạ Lan đang nằm chỗ nào trong hoa viên cả."

Güler cười tinh quái, tiếp tục kể lể bằng chất giọng hồn nhiên nhất mà thanh quản cậu ta có thể phát ra được.

"Người ta bảo là cho tới tận bây giờ, con mèo đen của Công nương Dạ Lan vẫn đi loanh quanh khắp khu đồi, kêu gào não nuột những lúc trời đổ mưa hoặc khi lấm tấm trăng bạc, khẩn khoản van cầu người lại qua cứu chủ mình khỏi chiếc rương oan nghiệt ấy."

"Không phải nó bị chôn cùng nàng ta sao?" Anh thắc mắc.

Güler tặc lưỡi, "Anh không biết mèo là sứ giả của thần linh, đi lại tự do giữa ba cõi à?"

"..."

Một cơn gió ẩm nhẹ nhàng luồn vào gác. Bellingham cảm thấy tóc gáy mình dựng đứng hết cả lên. Anh nhìn Güler, Güler dòm lại anh, trông cậu không có vẻ gì là đùa. Họ nhìn nhau, mắt to trừng mắt nhỏ, anh cảm thấy mình đang hứng chịu một cơn đau đầu. Thành thật mà nói, Güler có một khiếu hài hước khá ...dã man. Và liệu anh có thể xem nỗi hân hoan về căn nhà nghỉ dưỡng mà cậu hào hứng rủ anh cùng đi xem là thành quả của quan niệm điên khùng về sự lạc quan nơi cậu tình nhân bé hay không?

Được rồi, 𝘯𝘶̛̉𝘢 tình nhân. ½. Họ vẫn đang kẹt ở cái giai đoạn mặt ngoài còn e.

"Meow."

Tiếng mèo kêu xé rách khoảng không im lặng. Họ giật bắn mình, ngó quanh. Một con mèo đen không biết từ lúc nào đã lẻn vào gác tía. Nó ngồi chễm chệ trên băng ghế bọc đệm thêu tay đã phòi bông chỗ nọ chỗ kia, dáng vẻ đường bệ như một ông hoàng. Đám mèo di chuyển thường không gây ra tiếng động - đó là nếu chúng không muốn báo đời gia chủ - và ở Istanbul này thì đâu đâu cũng thấy được mèo. Chúng là ông hoàng của các vỉa hè và bậc tam cấp, vị chúa của những lùm hoa mật và rặng tiêu huyền, bá chủ của các quán hàng rong và tiệm cà phê sang trọng, ông cố tổ của thuyền ngư phủ, thím cao tằng của vạn vạn thánh đường. Mọi người quỳ lạy chúng, cung phụng chúng, dẫu là mèo nhà hay mèo lãng du thì việc bị chúng quay hai hòn bi vào mặt một cách đủng đỉnh phũ phàng là một sự đau khổ, thất thểu, bại khấu về tình trường.

Rõ ràng, con mèo đen này hoàn toàn ý thức được vị thế đường hoàng của nó ở đây, cũng như bao đồng loại khác, và cũng ý thức được cái địa vị tội nợ của đám thú hai chân sau rốt. Nó bệ vệ ngồi chù ụ một đống trên chiếc trường kỷ, oai như một vị sultan đang chờ đám tôi tớ tới thỉnh an mỗi sáng.

Bellingham nuốt nước bọt đánh ực một cái.

"Arda, lúc nãy em nói cô Công nương Dạ Lan gì gì đấy có nuôi một con mèo đen đúng không?"

Ở nước Anh, nơi cái đám đảo mù xa quanh năm ẩm ướt ấy, bị vây khốn trong sương mù cùng hải hàm trùng dương, mưa liên miên và củ dền thì vô cùng tận, chướng khí âm u lan tràn đủ mọi ngóc ngách từ lâu đài Trung Cổ đến cao ốc thị thành, người dân đã sớm sống chung với lũ. Nhưng dẫu chuyện một mét vuông đất chục con ma cùng ám hoàn toàn là sự thực (nhà anh cũng có ma xó mà!), anh cũng không mong đợi về cuộc gặp gỡ ngoài ý muốn giữa-ban-ngày cho lắm. Phải nói đấy là một cuộc hẹn không ai mong đợi, tệ hết sức.

"Chắc nó đến từ chỗ cầu tàu. Mèo hoang ở đấy nhiều lắm." Güler ngồi xổm xuống, lướt mu bàn tay lên lớp lông láng e như nhung của con mèo, nó rên hừ hừ, trông chẳng có vẻ gì giống mèo hoang cả: mập mạp, khỏe khoắn, bộ lông dày ánh màu cánh quạ, đôi mắt xanh như đá quý đầy ắp vẻ xinh đẹp cùng xấc láo. Nó đọc được suy nghĩ bay loạn xà ngầu trong đầu anh chăng, và nó đã sinh ra tự ái, thế là Bellingham quả quyết rằng cái con quỷ nhỏ đen như vùng mỏ này không có ưa anh chút nào sất.

Anh cũng không ưa nó tí tị tì ti nào, dù anh không phải kiểu người dở hơi lấy việc sút tung đít mèo làm trò vui.

"Đừng có dở hơi thế, Jude." Güler nạt. Bellingham nhún vai, không ý kiến ý cò gì. Ở Istanbul này thì phận thằng Tôm như anh nào dám đặt mình lên trên địa vị của các ngài meo meo đâu.

Vị Sultan lắm lông xem chừng hài lòng với thái độ của con sen thời vụ mà mình vô tình nhặt được lúc trú mưa lắm lắm. Nó nheo tít cả hai cái cửa sổ tâm hồn lại, tiếng rên hừ hừ nghe sảng khoái lạ, cái đuôi ve vẩy bên nọ bên kia.

"Mượt thật đấy." Güler cười tít mắt, vươn tay muốn ôm lấy con mèo.

Song, con mèo nhanh nhảu né sang một bên, cố nhiên, vẫn kịp tặng cho mu bàn tay trắng trẻo của cậu một cú miêu trảo đáo để. Mấy vạch cào song song, đều tăm tắp, rơm rớm máu. Bellingham quên tuột chuyện ma cỏ mèo người, vội vã chụp lấy bàn tay Güler, cậu thoáng rụt tay lại như chạm phải nước sôi. "Em không sao", cậu thì thầm, "Ai ở Istanbul rồi cũng phải bị mèo cào thôi, chúng nó trèo lên đầu lên cổ mà chễm chệ suốt ấy". Anh lắc đầu, anh lo nhỡ cậu bị gì thì sao, "Nó vẫn là mèo hoang đấy, có tiêm phòng gì đâu." Nhưng Güler chỉ nhún vai.

"Đâu ra nhiều chuyện không may thế."

Bellingham thẳng thắn chỉ ra, "Hồi mới tới, em còn chưa ra sân đã rách sụn chêm."

"Được rồi." Cậu không cố rút tay lại nữa. Họ ngồi xuống những bậc tam cấp trải thảm ẩm mốc. Cậu cố làm lơ cái cảm giác nóng như lửa cháy thẳng một đường từ những dây thần kinh đầu ngón tay vào tim, rồi vọt lên ót. Cậu thấy gáy mình nóng phừng phừng và dường như gương mặt cũng đỏ lựng lên theo. Làn da nâu thẫm trên chiếc gáy của Bellingham lọt vào tầm mắt cậu. Anh cúi đầu xem xét vết thương trên mu bàn tay Güler, cũng chỉn chu và ân cần như cách anh cúi đầu cặm cụi nới giãn vớ và thắt dây giày. Anh xem đấy là nghi thức thiêng liêng trước mỗi trận cầu. Cậu nhìn anh rút chiếc khăn mùi soa ra từ túi áo băng tay cho mình và tự hỏi, làm sao để cái vẻ lộng lẫy này của làn lụa hằn in mãi trên da, với những ngón tay anh dịu dàng như nhen lên ngọn lửa sưởi hiền hòa trên từng tấc thịt, thoảng mùi lan vàng đưa vào theo cơn mưa chớm lất phất. Cậu co nhẹ từng đầu ngón tay, nhưng rồi lại khiến chúng ngoắc vào làm bối rối mười ngón tay anh. Quá trình băng bó dài như đường từ Hagia Sophia đến Mecca. Ít nhất thì cũng không thắt nút kiểu nơ con bướm, Güler nhẹ nhõm thở phào trong dạ.

Bellingham thả tay cậu ra, nom gượng gạo, khác xa cái vẻ sôi nổi vội vã lúc nắm lấy. Một front khí căng thẳng len vào giữa hai người. Con mèo giương cặp mắt xanh biếc láo liên liếc họ bằng một vẻ láo xược vương giả. Nó ngoác mồm kêu meo meo và rồi nằm ườn ra trên tấm thảm kilim mốc meo thêu họa tiết cây nho.

"Cái đồ vô lương tâm." Güler cười xuýt xoa, mắng. Con mèo thì chẳng buồn quan ngại gì. Nó cứ tiếp tục ngáp một tiếng "meowwwww-" thật dài rồi mơ màng trôi vào giấc mơ trưa não nùng của nó.

Xà nhà thoáng kẽo kẹt. Một làn gió biển lướt qua Đồi Dạ Lan. Bellingham thoáng rụt cổ lại, anh nhác trong lòng cái viễn cảnh rùng rợn rằng thanh xà gỗ lim sẽ rơi thẳng xuống gáy mình như lưỡi đao trên máy chém. Thôi thì, nếu em chẳng yêu tôi thì thanh đao ấy cứ rơi phứt xuống cho xong. Anh thầm nhủ như thế. Nhưng cái nếp nhà xiêu vẹo ấy vẫn cứ đong đưa trước gió dữ, nửa như bỡn cợt anh, nửa như cố níu lấy cái hình hài nghiêng ngửa phủ đầy rêu phong của mình cùng với các bản lề và các bức tường, giữ chúng thành một thể, để cái nhà nhìn vẫn ra dáng cái nhà. Mưa bắt đầu rào rạt, giăng giăng khói tỏa trắng mù trên mặt nước sâu bí hiểm luôn luôn chuyển động quanh vịnh Bosphorus. Trảng lan vàng lấp lánh dưới mưa trưa. Nắng nhợt nhạt tìm được cách xuyên qua tầng mây dày, phết vội một lớp phấn kim tuyến lên cảnh vật rồi lại vụt biến đi mất.

Chợt, tiếng chim khuyên lảnh lót chợt vang lên giữa trang viên hoang phế. Anh ngẩng đầu, bắt gặp cái nhoẻn cười xinh xẻo nhẹ nhõm của Güler, da mịn như mặt lụa tằm. Con chim khuyên khuất mặt hát bài hát dân gian, thánh thót rỏ từng giọt vàng óng nô đùa giữa mưa và gió, làm lao xao, thổn thức cánh lan vàng.

Rồi đi nhanh cũng như đến, tiếng khuyên nó hót trên bờ lịm tan vào khoảng không lầu các. Chỉ còn lại gió mặn xâm lấn vào khoảnh trời hoang vu giữa lòng Đồi Dạ Lan - cái nấm mồ bị quên lãng chôn vùi dưới bậc thềm của cái di sản lịch sử bị lãng quên, đóng cửa tách bạch với toàn bộ vịnh Bosphorus lẫn thành phố, hệt như những lớp thành quách Topkapı giam giữ lại thời gian đáng lý phải được sống và được chết của các cung tần, bịt chặt tất thảy lời than oán rên xiết của họ sau tầng tầng lớp lớp tấm cửa phù điêu, bởi Sultan chỉ dành cả đời để đem lòng thương yêu một người đàn bà duy nhất. Tình yêu làm cho chốn hậu cung trở nên chật, khi người đàn bà ấy mất đi thì thiên đường và vinh quang cõi trần cũng sẽ tuẫn táng theo, trái tim của nhà vua vẫn đập, song đấy chỉ là từng nhịp đơn điệu buồn tẻ, đôi mắt ông ta chỉ còn có thể nhìn thấy màu xám. Những tháng năm cuối đời chỉ còn là một thời đại bi đát nối dài hàng chục năm liên tiếp, không chút niềm vui, không chút hạnh phúc, không còn ai gõ cửa trái tim mà cũng không ai dám gõ lên cánh cửa ấy như Người Đàn Bà Tươi Vui đã từng. Xuân sắc các cung phi bị quên lãng trong biệt viện, mục ruỗng đến mức họ chỉ còn là một thứ bóng vía của chính mình, vất vưởng bên các bờ tường quá cao so với tầm với, khắc khoải mong chờ một tiếng chim khuyên.

Güler ngắm biển, mưa vẫn giăng giăng màn voan vô tận trên vịnh. Bellingham miên man tư lự. Anh ngắm Güler, nét mặt nhìn nghiêng đáng yêu như cánh lan hài. Anh cảm thấy nỗi ngại mưa mau bồn chồn trong dạ. Anh cảm thấy mình có thể ngồi đây mà ngắm cậu cho tới tận cùng thời gian, khi mà Đồi Dạ Lan vỡ bung lả tả thành triệu triệu hạt bột màu và cánh lan vàng cuối cùng tan biến vào nẻo khuất, khi mà nắm xương tàn của Công nương rồi cũng phơi lồ lộ ra giữa dòng xuân thu. Anh cảm thấy sự hiện hữu của Güler trong đáy mắt mình và mình trong đáy mắt Güler, dẫu họ có đang soi mắt mình vào người kia hay không, thì trong tâm trí chỉ duy có người kia là kẻ sống duy nhất nơi thế gian: người cười vui, lòng tôi hân hoan niềm hạnh phúc. Và thế là trái tim cũng trở nên chật. Anh ngắm nhìn cậu và cứ thế hiểu được cho trái tim bị khóa lại vĩnh viễn của Sultan, nó chỉ ca hát vì một người duy nhất mà thôi, và chỉ thật sự sống khi mà người yêu dấu vẫn còn tồn tại. Trái tim sống, khác với trái tim đập. Người ta cứ luôn lẫn lộn bản chất của hai điều này. Cả Bellingham nữa, anh cũng đã luôn lẫn lộn thế. Như thể anh đứng bên bờ vực và nhìn xuống bên dưới, sóng cuộn cùng đá ngầm làm tim anh đập thình thình. Như thể anh đã nuốt dung nham vào trong, làm bốc hơi dịch vị, đốt cháy hết ruột gan và hai buồng phổi, cơn ợ nóng trào ngược trở lại tựa núi lửa phun trào, lụi cả lồng ngực ra tro. Như thể đôi mắt nâu của một phần hai nhân ngãi bóc từng lớp mạch máu chằng chịt bao phủ lấy trái tim anh như bóc lớp củ hành, nhìn vào thẳm sâu dòng máu luân chuyển từ vách này sang vách khác. Như thể nỗi sợ chết và lòng ham yêu, cơn sợ bỏng và chứng nhát thổ lộ là một, nhưng chúng có bao giờ là một đâu. Không đâu, sẽ chẳng bao giờ cả, bởi nếu chúng là một thì nhân loại cần gì tới hàng ngàn năm tìm kiếm câu trả lời cho khoảnh khắc đôi mắt mình bị người thương đánh cắp.

Làm sao? Làm sao đây? Trái tim của Bellingham hỏi anh, hỏi như thế.

Anh sẽ cứ chịu đựng và cứ chịu đựng mãi, chần chừ và cứ chần chừ mãi sao? Hương dạ lan luẩn quẩn mọi ngõ ngách trong tâm trí anh, hỏi anh, hỏi như thế.

Anh không định nói với cậu ấy sao? Anh muốn bỏ tình cảm vào rương rồi chôn cùng Công nương sao? Đàn bướm nghĩ suy chợt phá kén khỏi dạ, quây quần nhảy nhót trong bụng anh, hỏi anh, hỏi như thế.

Làm sao? Làm sao bây giờ? Tôi phải nói với em thế nào? Anh tự hỏi mình, hỏi như thế.

"Arda này..."

"Hử?"

"Em nghe hiểu tiếng Anh đúng không?" Bellingham liếm môi. Cổ họng anh cháy khát.

Ánh mắt Güler có phần ngờ vực, song cậu vẫn gật đầu. Dường như cảm thấy hành động của mình có phần tự tin quá, cậu sửa lại, "Chút chút thôi."

"Chút chút là đủ rồi. Em giúp anh cái này được không?"

"Là gì thế?"

"Anh không biết tiếng Thổ, nên anh có mấy câu này không rõ phải nói ra sao..."

Nói đi! Nói đi! Nói đi! Không lúc này thì lúc nào? Mau đi! Mau lên! Mau! Hãy nói đi! Con tim anh kêu gào thống thiết. Dẫu làn da anh thẫm màu chẳng nhìn ra được, Bellingham vẫn cảm thấy mình đang ngượng hồng lựng cả người. Tông giọng anh biến thành tiếng van lơn.

"...em dịch sang tiếng Thổ được không? Không cần phải đúng từng li đâu, chỉ cần giữ đại ý là được"

Güler thoáng ngạc nhiên trước sự khẩn khoản của anh. Cậu gật đầu, "Được chứ."

Bellingham buộc mình phải nhìn thẳng vào mắt Güler, mặc cho trống ngực dội thình thình. Güler giương đôi mắt đẹp đầy tò mò, bất giác dựng thẳng sống lưng.

Anh húng hắng ho. Anh mong mình không bị lạc sóng não giữa chừng.

Anh có nên ví Güler với mùa hạ không? Như cách mà Shakespeare từng ví von người đẹp trong những bài sonnet của ông.

"Shall I compare thee to a summer's day?" Anh có nên ví em với ngày hạ?

"Seni bir yaz gününe mi benzeteyim?"

"Thou art more lovely and more temperate." Em đáng yêu và dịu dàng hơn nhiều.

"Sen daha güzel ve daha ılıman bir aşksın."

Những ngón chân Bellingham bắt đầu ngúc ngoắc trong giày. "And summer’s lease hath all too short a date." Mùa hạ ngắn, chẳng đủ cho đôi ta hò hẹn.

"Ve yaz kontratının tarihi çok kısa." Güler như bắt được điều gì trong những vần thơ cổ, những ngón tay vươn ra rồi vặn xoắn lại, xỏ vào lòng bàn tay và những nếp gấp khăn mùi soa trên tay mình.

"As long as I can breathe or eyes can see-" Chừng nào anh còn thở và mắt có thể trông...

"Nefes alabildiğim veya gözlerim görebildiği sürece-"

"-thy eternal summer will not fade." Mùa hạ vĩnh cửu của em sẽ còn mãi.

"Sonsuz yaz solmayacak."

Con tim anh đập nhanh như thể anh đang chạy nước rút về phía khung thành. Nhanh lên! Chỉ một chút nữa thôi. "When in eternal lines to time thou grow'st." Trong bài thơ vĩnh cửu, em sẽ mãi rạng ngời.

"Zamanın sonsuz çizgilerinde büyüdüğünde."

"𝙄 𝙡𝙤𝙫𝙚 𝙮𝙤𝙪." Anh yêu em. Bellingham dứt lời. Một làn sóng cảm xúc đánh úp anh, khiến anh cứ đứng đực ra trước mặt cậu như trời trồng.

Giọng cậu lúng túng, hốt hoảng, rồi chuyển sang ngại ngùng, dịch nốt.

"𝘼𝙨̧𝙠."

Güler nhìn anh, lặng thinh, áng mây hồng nơi gò má lan sang hai vành tai và khiến chúng ửng đỏ hết cả lên. Chỉ còn mưa hắt vào qua song cửa, sóng vỗ vào các kè đá, con mèo giương cặp mắt xanh lè nhìn cả hai như đang muốn nói: các người mau mắn lên giùm. Mùi hương dạ lan chợt nồng sực, hay là do máu toàn thân Bellingham đang sùng sục đổ dồn cả về vùng đầu lẫn chẩm.

Tiếng chim khuyên lặn mất tăm nãy giờ, lại từ chốn đâu mà vang lên lảnh lót. Güler nhoẻn miệng, cười. Mủm mỉm. Xinh! Cực kỳ.

"Em cứ tưởng anh sẽ không bao giờ nói ra chứ."

Notes:

❁ Trừ câu "I love you." ra, những câu thơ mà Bellingham dùng để tỏ tình với Güler đều lấy từ bài Sonnet no.18 của William Shakespeare.

❁ 𝐩𝐚𝐬𝐡𝐚 (turkish): quan Tổng trấn.

❁ 𝐚𝐬̧𝐤 (turkish): tro.

Khi nói yêu nhau, người Thổ Nhĩ Kỳ nói "Seni seviyorum". Güler không dùng cách nói thông thường mà dùng duy nhất một từ "𝐚𝐬̧𝐤", nghĩa là 𝘵𝘳𝘰, để dịch nguyên câu "I love you." của Bellingham. Bởi vì, 𝐚𝐬̧𝐤 là một trong những từ mang sắc thái mạnh nhất trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, có nghĩa lóng là "tình yêu", dùng để chỉ thứ tình yêu ở mức độ quyến luyến, thân thiết, nồng thắm, mãnh liệt "như lửa cháy ra tro" nghiêng về sắc thái dành cho đôi lứa.