Bước tới nội dung

Jubaland

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà nước Jubaland của Somalia
Tên bản ngữ
Quốc kỳ Jubaland
Quốc kỳ
Quốc huy Jubaland
Quốc huy
Vị trí của Jubaland
Vị trí của Jubaland
Tổng quan
Thủ đôBu'ale (danh nghĩa)[1] Kismayo (thực tế)
Thành phố lớn nhấtKismayo
Ngôn ngữ chính thức
Tên dân cưSomali[2][3]
Chính trị
Chính phủNhà nước liên bang dưới chế độ dân chủ tổng thống
• Tổng thống
Ahmed Madobe
Lịch sử
Federal Member State 
thuộc Somalia
• Tuyên bố
3 tháng 4 năm 2011
• Sự công nhận
29 tháng 8 năm 2013
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
110,293 km2
42,584 mi2
• Mặt nước (%)
không đáng kể
Dân số 
• Ước lượng 2014
1,360,633
Kinh tế
Đơn vị tiền tệSomali shilling (SOS)
Thông tin khác
Múi giờUTC 3 (EAT)
• Mùa hè (DST)
UTC 3 (not observed)
Mã điện thoại 252 (Somalia)
Mã ISO 3166SO
Tên miền Internet.so
Federal States in Somalia

Jubaland (tiếng Somali: Jubbaland, tiếng Ả Rập: جوبالاند‎, tiếng Ý: Oltregiuba), Thung lũng Juba (tiếng Somali: Dooxada Jubba) hay Azania (tiếng Somali: Asaaniya, tiếng Ả Rập: آزانيا‎), là một nhà nước thành viên liên bang ở miền nam Somalia. Biên giới phía đông của nó nằm cách sông Jubba 40–60 km (25–35 mi) về phía đông, trải dài từ Gedo đến Ấn Độ Dương, trong khi phía tây của nó giáp tỉnh Đông Bắc của Kenya, được tách ra khỏi Jubaland trong thời kỳ thuộc địa.[4]

Jubaland có diện tích 110.293 km2 (42.584 dặm vuông Anh). Vào năm 2005, nó có dân số là 953,045 cư dân.[5][6] Lãnh thổ bao gồm các tỉnh Gedo, Lower Juba và Middle Juba. Thành phố lớn nhất của nó là Kismayo, nằm trên bờ biển gần cửa sông Jubba. Bardhere là thành phố lớn thứ hai ở Jubaland cũng như Luuq và Beled Haawo là các khu định cư chính khác của khu vực. Các thành phố khác như Jamame và Jilib hiện đang bị Al-Shabaab chiếm đóng.

Trong thời Trung cổ, Vương quốc Somali Ajuran có ảnh hưởng lớn đã thống trị lãnh thổ, tiếp theo là Vương quốc Geledi. Sau đó họ được sáp nhập vào Đông Phi thuộc Anh. Năm 1925, Jubaland được nhượng lại cho Ý, hình thành một phần của Somaliland thuộc Ý. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1960, khu vực này cùng với phần còn lại của Somaliland thuộc ÝSomaliland thuộc Anh đã trở thành một phần của Cộng hòa Somali độc lập.

Jubaland sau này là nơi diễn ra nhiều trận chiến trong cuộc nội chiến. Vào cuối năm 2006, phiến quân Hồi giáo đã giành được quyền kiểm soát hầu hết khu vực. Để giành lại quyền sở hữu lãnh thổ, một chính quyền tự trị mới có tên Azania đã được công bố vào năm 2010 và được chính thức hóa vào năm sau. Năm 2013, Cơ quan quản lý lâm thời Juba chính thức được thành lập và công nhận. Nó hiện là một trong năm chính quyền tự trị ở Somalia.

Giao thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Vận tải hàng không ở Jubaland được phục vụ bởi một số sân bay. Chúng bao gồm Sân bay Bardera, Sân bay GarbahareySân bay Kismayo.

Phân chia hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Ba vùng hành chính cấu thành của Jubaland là:

Xã hội và văn hoá

[sửa | sửa mã nguồn]

Cộng đồng

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm Đoàn kết Jubbaland (Solidarity Group of Jubbaland - SGJ), là một tổ chức phát triển cơ sở địa phương ở Jubaland.[7] Các điệu nhảy địa phương của Jubaland bao gồm Saar.[8] Chết vì đói là vấn đề thường xuyên xảy ra ở Jubaland, bao gồm các năm 2017[9] và 2021.[10] Năm 2020, tờ Daily Nation của Kenya đã mô tả Jubaland, cùng với Puntland là tộc Darod và tộc Sheekhaal.[11]

Biên giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 2 năm 2019, các quan chức Kenya đã cáo buộc rằng Somalia đang tham gia vào một cuộc đấu giá quyền khoan thăm dò không phù hợp dọc theo bờ biển châu Phi ở ngoài khơi Jubaland. Tòa án Trọng tài Quốc tế đã lên lịch các thủ tục vào tháng 9 năm 2019 liên quan đến lãnh hải, mà các nguồn tin Somali cho biết đang được các quan chức Kenya chiếm đóng trước. Kenya yêu cầu Somalia từ bỏ vụ kiện lên ICJ để thảo luận song phương. Somalia coi đây là chiến thuật trì hoãn vì cuộc thảo luận không mang lại kết quả từ năm 2009 đến năm 2014. KTuy nhiên, Kenya đã trao quyền khai thác cho các công ty Pháp và Ý vào năm 2009, tuy nhiên, lại cáo buộc Somalia làm điều tương tự. SSomalia phủ nhận cáo buộc. Somalia đã thắng phần lớn vụ kiện ngoài khơi bờ biển Jubaland về tranh chấp hàng hải vào năm 2020 tại Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ).[12]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Jubaland Constitution: Bu'ale is the Capital for Jubaland”. Dhanaan.com. 6 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2013.
  2. ^ “Somalia”. World Factbook. Central Intelligence Agency. 14 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2009.
  3. ^ Paul Dickson, Labels for locals: what to call people from Abilene to Zimbabwe (Merriam-Webster: 1997), p.175. ISBN 006088164X.
  4. ^ Osman, Mohamed Amin AH (1993). Somalia, proposals for the future. SPM. tr. 1–10.
  5. ^ “Regions, districts, and their populations: Somalia 2005 (draft)” (PDF). UNDP. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2013.
  6. ^ “Area Calculator – Outline a property on a google map and find its area”. mapdevelopers.com. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2017.
  7. ^ “Solidarity Group of Jubaland | arab.org” (bằng tiếng Anh). 25 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.
  8. ^ Simonds, Liana. “When Culture's Soft Power Confronts Hard Limits”. Pacific Standard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.
  9. ^ “Hunger Kills at Least 26 in Somalia's Jubaland Region”. VOA (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.
  10. ^ “Three children starve to death in Gedo region”. Goobjoog News English (bằng tiếng Anh). 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.
  11. ^ “Save Somalia from Farmajo, rogue MPS | Daily Nation”. nation.co.ke. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2022.
  12. ^ Berg, Stephanie van den (13 tháng 10 năm 2021). “World Court sides mostly with Somalia in border dispute with Kenya | Reuters”. Reuters.